Xu Hướng 10/2023 # Văn Mẫu Lớp 9: Bàn Về Đức Tính Siêng Năng Cần Cù (6 Mẫu) Nghị Luận Về Tư Tưởng Đạo Lý # Top 15 Xem Nhiều | Yvju.edu.vn

Xu Hướng 10/2023 # Văn Mẫu Lớp 9: Bàn Về Đức Tính Siêng Năng Cần Cù (6 Mẫu) Nghị Luận Về Tư Tưởng Đạo Lý # Top 15 Xem Nhiều

Bạn đang xem bài viết Văn Mẫu Lớp 9: Bàn Về Đức Tính Siêng Năng Cần Cù (6 Mẫu) Nghị Luận Về Tư Tưởng Đạo Lý được cập nhật mới nhất tháng 10 năm 2023 trên website Yvju.edu.vn. Hy vọng những thông tin mà chúng tôi đã chia sẻ là hữu ích với bạn. Nếu nội dung hay, ý nghĩa bạn hãy chia sẻ với bạn bè của mình và luôn theo dõi, ủng hộ chúng tôi để cập nhật những thông tin mới nhất.

Siêng năng, cần cù là phẩm chất tốt đẹp của người lao động, mà học sinh chúng ta, tuổi trẻ chúng ta phải rèn luyện hằng ngày. Chăm chỉ làm việc và học hành một cách đều đặn, thường xuyên thì gọi là siêng năng cần cù nghĩa là chăm chỉ, chịu khó một cách thường xuyên trong bất cứ công việc nào, nhất là trong lao động và học tập.

Có quý trọng thì giờ, mới biết cần cù, siêng năng. Có biết coi thì giờ quý như vàng bạc thì mới có ý thức chăm chỉ, chịu khó trong lao động sản xuất, trong học hành luyện trí, luyện tài. Có siêng năng, cần cù mới có ý thức không để thì giờ trôi qua một cách vô ích. vô vị.

Biết dùi mài kinh sử, biết suy nghĩ vận động, vươn lên học hỏi những điều mới mẻ, những kiến thức khoa học hiện đại thì mới có thể nói là cần cù, siêng năng. Thức khuya dậy sớm. chăm chỉ làm ăn, vượt qua mọi khó khăn thì mới gọi là siêng năng, chịu khó.

Người thợ coi tám giờ lao động là vàng ngọc. Người nông dân cuốc bẫm cày sâu, một nắng hai sương đế làm nên những mùa vàng bội thu, những cánh đồng đầy khoai xanh tốt. cần cù, siêng năng để làm ra của cải vật chất, để sáng tạo nên mọi giá trị tinh thần để làm cho cuộc sống ngày một ấm no hạnh phúc, làm cho đất nước, xã hội ngày một thêm giàu có. Muốn được sống trong ấm no, hạnh phúc thì phải siêng năng, cần cù. “Có làm thì mới có ăn – Không dưng ai dễ đem phần đến cho” là một lời khuyên chí lí. Muốn dân giàu, nước mạnh thì người người phải lao động, nhà nhà phải lao động; lao động một cách cần cù, siêng năng.

Nhân dân ta, đặc biệt là người nông dân rất siêng năng, cần cù. Có biết bao bài ca dao ngợi ca phẩm chất cao quý của họ:

hay

Trên đời, xưa và nay. cái đáng quý là lao động, người đáng quý là người lao động. Chính nhân dân lao động đã giáo dục chúng ta lòng yêu nước và đức tính cần cù, siêng năng. Nhờ siêng năng, cần cù mà mỗi chúng ta không sợ khó, sợ khổ, biết bền bỉ. nhẫn nại trong làm ăn, trong học hành.

Trái với siêng năng, cần cù là lười biếng, là “nhác làm siêng ăn”, là lãng phí thì giờ, trở thành kẻ sống thừa, vô tích sự.

Châm biếm kẻ lười biếng, nhân dân ta có câu ca:

Học sinh chúng ta, tuổi trẻ chúng ta phải chăm học chăm làm, phải siêng năng thức khuya dậy sớm, chịu khó cần cù học hành, luyện tập thì mới nên người. Phải biết “học ngày chưa đủ, tranh thủ học đêm”. Trong đợt ôn tập, kiểm tra, thi cử, học sinh phải siêng năng, phải cần cù ôn luyện. Có chịu khó, có nỗ lực cao thì mới có thể vươn lên học khá, học giỏi, mới giành được điểm cao trong thi cử?

Học tập hôm nay là để có ngày mai đúng ý nghĩa. Đó là một ngày mai lao động sáng tạo, ấm no, hạnh phúc. Siêng năng và cần cù hôm nay là để có một ngày mai tươi đẹp.

Trong cuộc sống có rất nhiều những đức tính tốt, chúng ta cần phải học tập và noi theo những đức tính và chuẩn mực đó của xã hội. Và phải kể đến đó là đức tính siêng năng, cần cù của con người trong xã hội.

Luôn đề cao, tinh thần ham học hỏi, cần cù, sáng tạo trong công việc cũng như trong cuộc sống, sự chăm chỉ đó được biểu hiện ở việc họ luôn đam mê với công việc hay học tập, luôn tự giác làm những điều tốt nhất cho xã hội, tích cực chủ động hơn trong cuộc sống, trong công việc, luôn tích cực thể hiện được tinh thần sáng tạo, cần mẫn với tất cả mọi việc trong cuộc sống.

Chăm chỉ, tìm tòi, phát hiện thêm những điều mới mẻ, chúng ta sẽ cảm thấy cuộc đời này thật ý nghĩa. Chăm chỉ còn biểu hiện ở đức tính luôn cố gắng làm mọi điều tốt nhất, sự cần mẫn trong công việc và cuộc sống, luôn chăm chỉ rèn luyện và phát triển bản thân mình mỗi ngày, thể hiện đức độ, đức tính cần mẫn của con người.

Mỗi chúng ta cần phải học hỏi đức tính tốt này, vì nó mang lại cho chúng ta nhiều điều giá trị cho cuộc sống của mình, luôn tích cực học hỏi, tìm tòi, cẫn mẫn với học tập và công việc của mình, sự cần cù, chăm chỉ đó tạo cho mỗi chúng ta những thói quen sống tốt, luôn biết cố gắng học hỏi, rèn luyện trong công việc.

Như dân gian ta đã có câu: “ cần cù bù thông minh”, chính vì thế sự cần cù mang lại cho chúng ta sự thành công, luôn tìm tòi, sáng tạo và học hỏi, luôn làm được mọi điều tốt nhất trong cuộc sống, từ đó con người có những quyết định đúng đắn hơn trong cuộc sống của mình, sự sáng tạo, cần mẫn, thể hiện sự dứt khoát, thái độ vững tin. Luôn thể hiện sự kiên trì, bền bỉ và sáng tạo của mình trước những vấn đề của cuộc sống, chính vì thế, mỗi chúng ta cần phải luôn thể hiện sự chăm chỉ, cần cù của mình trong cuộc sống.

Luôn thể hiện thái độ, tinh thần trách nhiệm, tích cực hơn với công việc, cuộc sống, có như vậy chúng ta mới có những đóng góp tích cực trong cuộc sống của mình, luôn thể hiện sự tự tin, chăm chỉ, cần mẫn của mình trong công việc và học tập, luôn thể hiện thái độ chăm chỉ, vượt qua mọi khó khăn, thử thách, dám đối mặt với những vấn đề của cuộc sống.

Đức tính siêng năng, cần cù, từ xưa đến nay đã được dân gian ta coi trọng vì nó mang lại nhiều lợi ích cho con người, để cho chúng ta những bài học quý giá trong cuộc sống. Sự cần cù, siêng năng, giúp cho mỗi chúng ta có thể hoàn thành tốt được công việc, khi có đức tính chăm chỉ trong người, không có một điều khó khăn, hay vất vả nào có thể cản bước chúng ta, luôn kiên trì, sáng tạo, thể hiện được bản lĩnh của mình trước những vấn đề của cuộc sống.

Trong cuộc sống có rất nhiều tấm gương sáng, họ luôn kiên trì, chăm chỉ, siêng năng trong học tập điển hình như chủ tịch Hồ Chí Minh, bác luôn cần mẫn trong chiến đấu và đời sống, bước là tấm gương sáng cho mỗi chúng ta học tập và noi theo.

Mỗi chúng ta cần phải cố gắng học hỏi cho mình đức tính cần cù, siêng năng, nó là đức tính tốt, mỗi chúng ta cần phải tìm tòi, sáng tạo và học hỏi mỗi ngày.Như bác Hồ đã từng nói: “ không có việc gì khó chỉ sợ lòng không bền” chỉ cần cần cù, siêng năng, chúng ta sẽ làm được mọi việc.

Siêng năng cần cù là một phẩm chất tốt đẹp của mỗi con người, từ học sinh cho tới người lao động ai cũng cần phải rèn luyện đức tính này hằng ngày bởi vì nó có tầm quan trọng tới cuộc sống chúng ta và hướng tới cho chúng ta những gì tốt đẹp nhất.

Vậy thì siêng năng cần cù là gì? Đó là chăm chỉ làm việc và chăm chỉ học tập một cách thường xuyên và đều đặn, đó người ta gọi là siêng năng. Còn cần cù là chăm chỉ chịu khó làm việc, cho dù khó khăn cũng không bỏ cuộc, nhất là trong học tập và trong lao động.

Người ta thường bảo thời gian quý như vàng như bạc , chính vì thế cho nên những ai biết quý trọng thời gian thì mới chịu khó làm việc, chịu khó siêng lao động, học hành. Có siêng năng cần cù thì mới có ý thức, không để cho thời gian của mình trôi qua một cách lãng phí bởi như vậy là vô ích.

Cần cù siêng năng là biết dùi mài kinh sử, biết tìm tòi những cái khó trong học tập để vươn lên tầm cao mới, khám phá ra những kiến thức khoa học hiện đại. Thức khuya dậy sớm và chăm chỉ làm ăn , vượt qua những khó khăn, khổ cực thì đó mới gọi là siêng năng, chịu khó.

Người học sinh đi học thì cần phải biết cố gắng vươn lên trong học tập, bài nào không hiểu thì tìm tòi ra lời giải đáp . Đó mới gọi là cần cù.

Người thợ coi giờ lao động của mình là vàng ngọc cho nên cố gắng làm hết mình để không lãng phí thời gian. Người nông dân cày sâu cuốc bẫm một nắng hai sương là để làm nên mùa màng bội thu, họ cần cù siêng năng để làm ra từng hạt lúa hạt gạo, để có cuộc sống ấm no và hạnh phúc. Và muốn được no ấm và giàu có thì phải biết siêng năng cần cù, biết vươn lên trong từng thời khắc của cuộc sống.

Từ trước cho tới nay, cái đáng quý nhất là người lao động, và người đáng quý nhất đó là người lao động. Chính nhân dân lao động đã giáo dục cho chúng ta về lòng yêu nước và về đức tính cần cù. Nhờ có siêng năng cần cù mà mỗi chúng ta không sợ gian lao khó khăn hay vất vả gì, luôn nhẫn nại kiên trì trong làm ăn, trong học hành.

Trái với siêng năng cần cù là lười biếng , đó là những người “siêng ăn nhác làm” chỉ biết hưởng thụ chứ không chịu động não suy nghĩ hay làm việc, họ trở thành kẻ sống thừa và vô tích sự trước mặt người khác và luôn khiến cho người khác phải chê cười.

Là người học sinh, chúng ta phải biết chăm chỉ làm ăn, phải biết thức khuya dậy sớm chịu khó học hành thì mới nên người, mới xây dựng cho tương lai của bản thân và xã hội tốt đẹp được. Nhất là trong các kì thì thì cần phải siêng năng ôn luyện, không được thấy khó mà nản chí. Có chịu khó nỗ lực hết mình thì mới có thể vươn lên học khá học giỏi, mới giành được điểm tốt.

Những người siêng năng cần cù thường hay được mọi người kính nể và cũng là tấm gương đẹp để mọi người noi theo. Học sinh cần cù thì được thầy yêu bạn mến còn người lao động cần cù thì được mọi người thán phục.

Học tập hôm nay để có một ngày mai đúng nghĩa. Đó là một ngày mai ấm no, hạnh phúc tươi sáng hơn. Chăm chỉ cần cù đưa ta tới những thứ tốt đẹp trong cuộc sống cho nên chúng ta cần phải biết quý trọng hơn nữa.

Cần cù là một đức tính tốt đẹp, một phẩm chất cao quý mà ai cũng cần rèn luyện, tu dưỡng. Chăm chỉ, chịu khó một cách thường xuyên thì gọi là cần cù. Gần nghĩa với cần cù là siêng năng. Ta thường nói: cần cù, siêng năng học hành; cần cù. siêng năng lao động, làm ăn. Mọi thành quả mọi hoa thơm trái ngọt trên đời đều do sức lao động cần cù làm ra:

Nhờ cần cù, siêng năng mới biến trí lực và thời gian thành kiến thức, học vấn, của cải vật chất, giá trị tinh thần. Người cần cù, siêng năng mới có cuộc sống ấm no, hạnh phúc. Có thức khuya dậy sớm, có nấu sử sôi kinh hàng chục năm trời mới có thế thành ông tú, ông cử, ông nghè. Có thức khuya dậy sớm, cuốc bẫm cày sâu, một nắng hai sương, bán mặt cho đất, bán lưng cho trời mới làm nên những mùa vàng, những bát cơm đầy dẻo thơm. Làm ngày chưa đủ, tranh thủ làm đêm”, (‘mỗi người làm việc bằng hai ” là cần cù, siêng năng.

Có nhiều bài ca dao ca ngợi đức tính cần cù, siêng năng, chịu khó của người dân cày Việt Nam mà hầu như ai cũng thuộc:

Người thợ mỏ có cần cù, chịu khó mới chui vào hầm lò khai thác than, mới đứng bên máy suốt tám tiếng đồng hồ để sản xuất.

Cần cù, siêng năng gắn liền với sáng tạo. Vì thế mới có câu: “Cần cù bù thông minh”. Trái với cần cù là lười nhác, lười biếng, là nhác làm siêng ăn. Nhân dân ta đã châm biếm những kẻ lười biếng:

Học sinh biết chăm học, chăm làm, tích cực tham gia vào phong trào “Nghìn việc tốt ”, để xây dựng trường lớp, không chỉ để gắn liền học đi đôi với hành mà còn để rèn luyện, tu dưỡng đức tính cần cù, siêng năng.

Người cần cù, siêng năng thì luôn tay làm việc, đầu óc luôn suy nghĩ, mới cảm thấy thì giờ là vàng ngọc. Cần cù, siêng năng là phẩm chất cần có để phát huy tài năng và trí sáng tạo. Cuộc đời của các nhà bác học là tấm gương sáng về đức tính cần cù học tập, nghiên cứu, lao động bền bỉ… để tuổi trẻ chúng ta noi theo.

Xã hội hiện nay vốn vô cùng phức tạp, từng người phải chen chúc nhau mà sống. Cuộc sống bây giờ cũng vậy, ai cũng mong bản thân mình được thành công. Nhưng nếu muốn thành công trước tiên ta phải là một con người siêng năng. Siêng năng sẽ là con đường dẫn dắt ta tiến tới thành công trong mọi việc và giúp ta đạt được những gì ta mong muốn.

Siêng năng là sự cần cù, tự giác, miệt mài trong công việc, làm việc thường xuyên và đều đặn, không tiếc công sức. Trái với siêng năng là lười biếng, không muốn làm việc, hay lần nữa, trốn tránh công việc, ỷ lại vào người khác hoặc đùn đẩy việc cho người khác.

Siêng năng còn là sự say mê học hỏi từ người khác, khám phá mọi thứ mình chưa biết. Những người siêng năng thường vô cùng cần cù, biết tự giác và miệt mài làm việc. Chăm chỉ học tập từ bạn bè hoặc người khác. Siêng năng, kiên trì giúp cho con người thành công trong mọi lĩnh vực của đời sống xã hội.

Người có tính siêng năng chắc chắn là một người yêu lao động. Họ lấy lao động làm niền vui, miệt mài làm việc. Người siêng năng luôn làm tốt công việc và không đề cao khen thưởng. Nếu có yếu kém, họ biết lấy cần cù, chăm chỉ để bù khả năng của mình. Thành quả trong lao động là kết quả của công sức, sự siêng năng và kiên trì.

Một học sinh siêng năng luôn đi học chuyên cần; chăm chỉ học bài và làm bài. Tích cực tham gia xây dựng bài ở lớp; có kế hoạch học tập khoa học và thực hiện tốt kế hoạch đã đặt ra; khi gặp bài tập khó trong học tập thì không nản chí, nản lòng mà có sự quyết tâm làm đến cùng. Siêng năng luôn có ý thức tự giác học bài và làm bài, không làm việc riêng trong giờ học.

Một học sinh không siêng năng thường có thói lười biếng, ỷ lại, làm việc hời hợt, cẩu thả, ngại khó, ngại khổ,làm việc mau chán, uể oải, chểnh mảng. Sau khi tan học về họ sẽ quăng cặp ở đó rồi mở máy chơi game. Chơi game đến khi mệt thì lên giường ngủ. Tập vở không bao giờ được mở ra hay chỉ lướt qua một lần. Những người như thế sẽ chẳng khi nào làm được gì. Tuy rằng lời này hơi nặng nhưng họ thật sự là gánh nặng của gia đình và xã hội này. Xã hội bây giờ có nhiều mặt xấu thế này đa số cũng từ những loại người này mà ra.

Không có thành quả nào tự nó hình thành. Tất cả là kết tinh của sức lao động, sự siêng năng và kiên trì. Trên bước đường thành công, không bao giờ có dấu chân của kẻ lười biếng. Siêng năng là khởi đầu của mọi thành công.

Không siêng năng trong lao động, công việc sẽ trì trệ, kéo dài, thậm chí là thất bại. người không siêng năng thường không có ý chí, không có khát vọng thành công. Họ sống yếu đuối, hèn kém, dễ dàng bỏ cuộc khi vấp phải khó khăn, trở ngại.

Lười biếng là kẻ thù của mọi thành tựu. Kẻ lười biếng là người sống ích kỉ, dựa dẫm. Họ thường bị người khác khinh chê, xa lánh. Ngược lại, người siêng năng, dẫu năng lực có yếu kém hay thất bại trong công việc, họ vẫn được người khác tôn trọng, yêu thương và giúp đỡ.

Đối với học sinh, thì cần phải rèn luyện từ ngay bây giờ. Hãy cố gắng cần cù, siêng năng trước khi mọi thứ quá trễ. Để rèn luyện được siêng năng thì cũng cần có một khoảng thời gian dài. Đâu phải ta muốn siêng năng thì có thể làm được ngay. Hãy bắt đầu từ việc chăm chỉ học tập rồi khám phá mọi thứ mình chưa biết. Những điều mình biết rồi chỉ là một phần rất nhỏ trong mọi thứ mình chưa biết.

Tự đánh giá được hành vi của bản thân và của người khác về siêng năng, kiên trì trong học tập, lao động, trong sinh hoạt hàng ngày. Tự bản thân rèn luyện đức tính siêng năng, kiên trì ở mọi nơi, mọi lúc. Quý trọng những người siêng năng, kiên trì. Không đồng tình với những biểu hiện của sự lười biếng, hay nản lòng.

Phải biết rèn luyện kỹ năng của bản thân từ mọi thứ nhỏ nhất. Học tập và phải có lòng quyết tâm, kiên trì. Từng việc nhỏ nhất sẽ làm thành một việc lớn. Thế nên đừng nản lòng, mọi thứ rồi sẽ thành công nếu bạn siêng năng, kiên trì. Hãy cứ như thế để có đủ khả năng phát triển bản thân, đất nước và xã hội. Đất nước của ta sẽ phụ thuộc vào ta hôm nay.

Thành công sẽ đến với ta nếu ta biết siêng năng, chăm chỉ. Đừng bao giờ lười biếng nó chẳng giúp được gì cho ta. Hãy luôn kiên trì rồi mọi điều tốt đẹp sẽ đến với bạn. Bản thân ta sẽ hạnh phúc hơn rồi gia đình cũng như thế. Cuộc sống của ta sẽ nhuộm một “màu hồng hạnh phúc”.

Advertisement

Để thành công trong cuộc sống, mỗi con người cần hình thành và rèn luyện cho mình nhiều đức tính tốt đẹp. Một trong những đức tính cần có là tính siêng năng và kiên trì trong công việc. Đặc biệt là đối với lứa tuổi học sinh, những con người trẻ tuổi đang từng ngày kiên trì rèn luyện mình trên ghế nhà trường.

Siêng năng trong công việc thể hiện sự cần cù, tự giác, miệt mài trong công việc, làm việc một cách thường xuyên, đều đặn, không tiếc công sức. Trái với siêng năng là tính lười biếng, không muốn làm việc, hay lần lữa, trốn tránh công việc, ỷ lại vào người khác hoặc đùn đẩy việc cho người khác.

Kiên trì trong công việc là quyết tâm làm đến cùng, không bỏ dở giữa chừng mặc dù có khó khăn, gian khổ hoặc trở ngại. Trái với tính kiên trì hay nản lòng, chóng chán, làm được đến đâu hay đến đó, không quyết tâm và thường không đạt được mục đích gì cả.

Người có tính siêng năng và kiên trì trong công việc thường chăm chỉ, cần cù, chịu khó làm việc. Không bao giờ ta thấy họ than vãn hay ngại khó ngại khổ. Trong công việc, họ luôn hoàn thành tốt, hướng đến thành công. Trước những khó khăn, họ kiên nhẫn tìm cách vượt qua. Họ miệt mài lao động với một tình yêu lớn dành cho công việc đang làm.

Người có tính siêng năng, kiên trì không bao giờ bỏ cuộc hay đầu hàng khó khăn, thử thách. Họ luôn biết giúp đỡ người khác trong công việc. Họ luôn là động lực để người khác cố gắng. Bởi thế, họ luôn được mọi người yêu mến và giúp đỡ.

Cuộc sống luôn đặt ra những thử thách để con người vượt qua. Không có việc gì dễ làm mà mang lại kết quả lớn. Thử thách càng cao, phần thưởng càng lớn. Bởi thế, đừng mong việc dễ làm mà hãy dũng cảm đối diện thử thách để rèn luyện bản thân và gặt hái thành công.

Siêng năng và kiên trì trong công việc giúp con người không chán nản hay bỏ cuộc trước khó khăn, trở ngại. Để làm nên việc lớn, nhất định phải làm tốt việc nhỏ. Từ những cái nhỏ tích cóp thành cái lớn. Không thành quả nào tự nhiên mà có. Tất cả đều được xây dựng bởi sức lao động cần mẫn của con người.

Người có tính siêng năng và kiên trì luôn được người khác yêu mến và giúp đỡ. Bởi thế, họ dễ thành công trong cuộc sống này.

Trước hết, phải có ý thức tự rèn luyện bản thân tốt đẹp theo chuẩn mực xã hội. Từ ý thức đi đến hành động cụ thể trong công việc và trong đời sống thường ngày.

Trong học tập, phải biết tuân thủ nội quy, kỉ luật trường lớp. Đi học chuyên cần, đều đặn, không trốn tiết hay viện lí do để nghỉ học. Gặp bài học khó không nản chí mà phải tìm cách thấu hiểu và giải quyết cho kì được.

Trong lao động, phải biết tìm tòi sáng tạo. Mỗi ngày một suy nghĩ mới sẽ làm cho cuộc sống thêm tươi vui, tinh thần vững mạnh. Chăm chỉ làm việc nhà, không ngại khó, tiết kiệm… Tích cực giúp đỡ người khác.

Trong việc rèn luyện thân thể, luôn kiên trì tập thể dục thể thao. Tích cực cùng mọi người giữ gìn vệ sinh, bảo vệ môi trường sống lành mạnh, tiến bộ. Kiên trì chống tệ nạn xã hội.

Trái ngược với tính siêng năng, kiên trì là thói lười biếng, ỷ lại. Những người lười biếng, thiếu nhẫn nại thường sống hời hợt, cẩu thả. Trong công việc, họ hay so đo tính toán thiệt hơn, ngại khó ngại khổ và đùn đẩy cái khó cho người khác. Họ luôn sống dựa dẫm, dựa dẫm và ăn bám người thân và bạn bè. Bởi thế, họ thường sống trong nghèo khó và bị mọi người chê cười, xa lánh.

Siêng năng và kiên trì giúp con người thành công trong công việc, trong cuộc sống. Là học sinh phải rèn luyện được tính siêng năng, kiên trì để học tập thành công và sống tốt đẹp.

Nếu chăm chỉ mang đến cho chúng ta sự may mắn thì kiên trì giúp ta gặt hái thành công. Những thành tựu vĩ đại không phải được gặt hái bằng sức mạnh mà chính bằng lòng kiên trì. Siêng năng và kiên trì là những đức tính cần thiết mà mỗi học sinh hôm nay cần phải có.

Văn Mẫu Lớp 10: Nghị Luận Xã Hội Tốt Gỗ Hơn Tốt Nước Sơn (Dàn Ý + 5 Mẫu) Nghị Luận Về Một Tư Tưởng Đạo Lý

1. Mở bài

– Quan niệm sống của nhân dân lao động trong việc đánh giá con người, đồ vật được thể hiện qua câu tục ngữ: “Tốt gỗ hơn tốt nước sơn”.

2. Thân bài

* Giải thích ý nghĩa của câu tục ngữ:

– Một vật dụng được làm bằng gỗ, thì chất lượng gỗ quan trọng hơn nước sơn. Gỗ: chất lượng (của đồ vật) hoặc chỉ bản chất bên trong (của con người); Nước sơn: hình thức bên ngoài.

– Khẳng định nội dung bên trong quan trọng hơn hình thức bên ngoài và nội dung quyết định hình thức.

– Ý nghĩa câu tục ngữ là hoàn toàn đúng vì: Đồ vật làm bằng gỗ tốt sẽ dùng được lâu. Đồ vật làm bằng gỗ xấu thì mau hư mục, cho dù được sơn phết đẹp đẽ.

– Đánh giá con người nên coi trọng nội dung bên trong (bản chất) hơn là hình thức bên ngoài vì:

Con người có đạo đức tốt, có năng lực cao sẽ làm được nhiều việc hữu ích cho bản thân, gia đình, xã hội. Nếu có hình thức tốt nữa (dáng vẻ, quần áo, đầu tóc, ngôn ngữ, tác phong…) thì giá trị càng tăng.

Con người dù có hình thức bên ngoài đẹp đẽ (tốt mã) mà trình độ, năng lực kém cỏi, tư cách không tốt thì cũng chỉ là loại người vô dụng.

– Quan điểm về việc đánh giá con người:

Đánh giá qua phẩm chất đạo đức, năng lực

Khách quan và sáng suốt khi nhận định mối tương quan giữa nội dung và hình thức.

3. Kết thúc vấn đề:

– Khẳng định cách đánh giá trên là đúng.

– Câu tục ngữ là một lời khuyên sáng suốt và thiết thực trong việc đánh giá sự vật và con người.

Trong cuộc sống hàng ngày, để đánh giá một đồ vật, một con người đạt mức độ chính xác ,chúng ta nên dựa trên nguyên tắc hay cách thức nào? Đây cũng là vấn đề xưa nay được nhiều người quan tâm. Cha ông cũng từng có ý kiến hướng dẫn việc ấy trong câu tục ngữ :

“Tốt gỗ hơn tốt nước sơn”.

Ta nên hiểu câu này như thế nào và đánh giá nó ra sao ? Phải chăng đây chính là kinh nghiệm quý báu mà ông cha của chúng ta từ nghìn xưa đã để lại cho con cháu suy ngẫm và học hỏi.

Câu tục ngữ dùng hai sự vật “gỗ” và “nước sơn” để làm một phép so sánh.”Gỗ” là chất liệu để làm đồ dùng như tủ, giường, bàn, ghế…Còn “nước sơn” là chất liệu để quét lên lớp bên ngoài cho các đồ dùng ấy thêm đẹp thêm bền. Nhiều người chỉ chú ý đến lớp nước sơn bóng nhoáng bề ngoài mà đã mua phải một đồ dùng bằng gỗ xấu hoặc gỗ mọt. Ông cha ta với kinh nghiệm sống của mình đã kết luận là: “Tốt gỗ hơn tốt nước sơn”.

Đó là hiểu theo nghĩa đen.Còn nghĩa bóng của câu tục ngữ thì rộng hơn rất nhiều. Nó bao hàm một lời khuyên về cách nhìn nhận, đánh giá một sự vật,một con người đừng nên để cái vỏ hình thức hào nhoáng bên ngoài mê hoặc mà phải coi trọng cái thực chất bên trong. Ngoài ra, câu này còn bao hàm một lời khuyên về cách sống; hãy sống chân thật bằng thực chất của mình, chân thành trong cách đối nhân xử thế,đừng ba hoa,khoác lác lòe đời bằng cái vỏ hình thức giả tạo, ”chớ khéo đem cái mã bề ngoài để che đậy cái sơ sài bên trong”.

Như mọi câu tục ngữ khác,câu tục ngữ này cũng là đúc rút kinh nghiệm của cha ông chúng ta,trải qua biết bao thế hệ,với bao thành bại, nên hư, vấp váp mới đúc rút thành chân lí: ”Tốt gỗ hơn tốt nước sơn”. Khi nhìn nhận đánh giá một sự vật,ta phải thấy rằng giữa hình thức bên ngoài và nội dung bên trong ,không phải lúc nào cũng thống nhất mà thông thường thì những sự vật có thực chất kém cỏi lạ thường một hình thức lôi cuốn hấp dẫn. Một vật dụng như chiếc tủ, chiếc giường,chiếc bàn bằng gỗ tạp lại được sơn phết, tô điểm với nước sơn bóng nhoáng, màu mè. Mỗi kẻ vô tài thường làm ra vẻ lịch duyệt, hiểu biết. Những kẻ “miệng nam mô bụng một bồ dao găm” vẫn tồn tại phổ biến trong xã hội. Do đó,trong tiếp xúc thường ngày với mọi sự vật, mọi con người phải chú trọng vào chất lượng bên trong của sự vật, vào vẻ đẹp tâm hồn của con người chớ đừng vì bóng sắc hấp dẫn bên ngoài mà quên đi cái mục ruỗng, thối nát, xấu xa và vô vị bên trong. Bởi vì nghĩ cho kĩ, suy cho cùng, nếu chân giá trị của vật dụng là chất gốc thì chân giá trị của con người chính là đạo đức tài năng và trí tuệ.

Nhưng cũng không thể chỉ xem trọng nội dung mà lãng quên đi mặt hình thức. Một vật dụng, một món hàng đã có chất lượng tốt, gỗ tốt gỗ quý lại có bao bì, hay nước sơn xinh xắn tô điểm, trang trí đẹp đẽ thì giá trị vật dụng ấy, món hàng ấy càng được nâng thêm. Hình thức bên ngoài như thế đã góp phần làm tăng thêm cho giá trị bên trong. Một cái tủ,một chiếc bàn làm bằng gỗ đỏ hay bằng lăng mà lại còn được sơn bóng nhoáng hẳn sẽ vừa ý vừa lòng người mua. Một con người cũng vậy, có học vấn, đạo đức lại nói năng lịch sự thanh nhã, ăn mặc gọn gàng, sạch đẹp dễ làm ta thêm quý trọng hơn hẳn người tuy cũng có tài năng,đạo đức nhưng ăn nói thô lỗ,cộc cằn,áo quần xốc xếch. Đúng là cái đẹp lí tưởng phải là hài hòa giữa nội dung và hình thức.

Vậy để đánh giá và nhận xét một vật dụng,một con người,chúng ta dựa trên cơ sở cả nội dung lẫn hình thức.Hai mặt này kết hợp và bổ sung cho nhau làm nên giá trị của vật dụng ấy, con người ấy,trong đó nội dung giữ vai trò quyết định.Khi đánh giá,ta cần coi trọng chất lượng của sự vật cũng như đạo đức,tài năng trí tuệ của con người.

Tóm lại, ”tốt gỗ hơn tốt nước sơn” không những chỉ giúp ta một phương châm đúng đắn trong việc nhìn nhận, đánh giá, chọn lọc ở đời mà còn giúp ta một phương châm trong cách đối nhân xử thế. Không nên dựa dẫm vào cái hình thức bề ngoài vay mượn, không phải của mình để vênh vang tự phụ với mọi người rồi không chịu tu dưỡng rèn luyện. Cũng đừng nên quá chú trọng hình thức bên ngoài, trang điểm mặt này, chưng diện quần áo mà quên đi cái chân giá trị của con người là đạo đức, trí tuệ và tài năng. Bài học mà câu tục ngữ này dạy ta thật là đúng đắn và sâu sắc.

Xã hội ngày càng phát triển, tam quan của con người và các nhận thức về hình thái thẩm mỹ đã có rất nhiều thay đổi so với trước đây. Chúng ta đều biết rất rõ ràng đã qua rồi cái thời ăn chắc mặc bền, cơm no áo ấm là có thể thỏa mãn con người, tất cả chúng ta đều bắt đầu có ý thức đầu tư vào một cuộc sống đầy đủ tiện nghi, trong đó việc đầu tư vào nâng cao giá trị của bản thân, đặc biệt là việc chăm chút cho ngoại hình ngày càng được xem trọng. Có đôi khi người ta còn chú ý đến ngoại hình một cách quá mức, thậm chí là bỏ qua việc chăm chút cho trí tuệ, nhân phẩm và các giá trị khác, điều đó làm dấy lên các quan ngại về tầm quan trọng của ngoại hình trong thời buổi hiện tại, liệu có phải xấu xí sẽ phải chịu nhiều thiệt thòi, và xinh đẹp thì sẽ có một cuộc đời thuận lợi? Liệu câu nói “Tốt gỗ hơn tốt nước sơn” mà ông bà ta vẫn thường hay nói có còn giữ nguyên giá trị?

Trước hết định nghĩa về vẻ đẹp bên ngoài, tức là những đặc điểm nổi bật bề ngoài mà chỉ cần nhìn vào là chúng ta đã có thể nhận biết. Dĩ nhiên đẹp hay xấu thì mỗi người có một cách nhìn nhận nhưng ở một góc độ nào đó vẻ bề ngoài thường được đánh giá bằng các tiêu chí chung. Ví như mắt bồ câu, mặt trái xoan, mũi dọc dừa, môi trái tim, lông mày lá liễu, da trắng, dáng chuẩn là những tiêu chuẩn tuyệt đối của vẻ đẹp con người đã có từ xa xưa. Ngày nay thì tiêu chuẩn của ngoại hình có phần thay đổi hơn rất nhiều nhưng cũng không quá xa rời với tiêu chuẩn cũ mà chỉ là cách tân thêm một chút. Vậy ngoại hình có quan trọng không? Tôi xin phép được khẳng định rằng ngoại hình rất quan trọng, từ xa xưa đã như vậy, những cô gái có vẻ ngoài xinh xắn thì thường được để ý, săn sóc nhiều hơn, nói chung chỉ còn hơi có duyên một chút là đã được ưu ái hơn rất nhiều.

Đặc biệt trong thời buổi kinh tế thị trường, ngành dịch vụ chiếm ưu thế quan trọng, thị hiếu của khách hàng trong tất cả các khâu đều được đặt lên hàng đầu, thế nên việc có một đội ngũ nhân viên chỉn chu, bắt mắt cũng giúp doanh nghiệp thu hút khách hàng nhiều hơn. Bởi tâm lý chung của con người là yêu thích cái đẹp, thấy cái đẹp thì tâm trạng sẽ trở nên tốt hơn, thoải mái hơn. Đặc biệt việc có một ngoại hình tương đối cũng ảnh hưởng tương đối đến tính cách của con người, một người khi nhìn ra được lợi thế thu hút người khác của mình thì dần trở nên tự tin, vui vẻ và yêu đời hơn, từ đó họ lại càng có ý chí phấn đấu để tự khẳng định bản thân mình trong xã hội.

Đó là định nghĩa về vẻ đẹp ngoại hình, vậy thế nào là vẻ đẹp bên trong? Đã gọi là vẻ đẹp bên trong thì tức là những thứ mà bằng mắt thường chúng ta không thể nào đánh giá ngay từ lần đầu tiếp xúc, mà để nhìn nhận được rõ ràng thì chúng ta cần có một khoảng thời gian nhất định. Đó bao gồm những những giá trị đạo đức, nhân phẩm cao đẹp như lòng bao dung, nhân hậu, tính trung thực, lòng tự trọng, sự dũng cảm, kiên trì, lòng yêu nước,… Là vẻ đẹp của một tâm hồn giàu tri thức, trí tuệ, biết lắng nghe, biết thấu hiểu, biết trân trọng những gì đang có, biết cố gắng nỗ lực hoàn thiện bản thân. So với vẻ đẹp ngoại hình thì vẻ đẹp tâm hồn lại càng quan trọng đối với mỗi cá nhân, nó quyết định vị trí, vai trò của con người trong cộng đồng, trong xã hội, quyết định xem con người đó liệu có thành công, có một cuộc sống, ý nghĩa và hạnh phúc hay không. Hơn thế nữa, vẻ đẹp ngoại hình có thể tàn phai theo năm tháng, nhưng những vẻ đẹp đến từ bên trong con người thì chỉ có thể ngày một sáng rõ và tươi đẹp hơn theo thời gian, theo những trải nghiệm mà con người đã trải qua, gần như là một vẻ đẹp mang giá trị vĩnh cửu và vô giá, không một đồng tiền nào có thể mua được.

Đối với tôi dù là ngoại hình hay tính cách thì đối với một con người trong xã hội đều rất quan trọng, chúng ta không thể chỉ nhìn vẻ bề ngoài mà đánh giá họ là xấu hay đẹp. Bởi vẻ đẹp của con người phải tổng hòa cả hai yếu tố trên. Một con người có vẻ ngoài xuất sắc, vô cùng ưa nhìn thế nhưng lại mang một tâm địa rắn rết, ích kỷ, ỷ lại vào bản thân có ngoại hình xinh đẹp liền không coi người khác ra gì, không có ý chí phấn đấu, luôn muốn nhận được những ưu đãi nhờ ngoại hình của mình thì chung quy cũng không phải người tốt lành. Trái lại có thể có những con người cha sinh mẹ đẻ không cho họ một nhan sắc tựa thiên tiên nhưng họ lại có tấm lòng tựa bồ tát, nhân hậu, lương thiện, biết yêu thương con người, biết phấn đấu và nỗ lực thì tôi tin rằng chắc chắn họ sẽ có một cuộc sống hạnh phúc.

Tuy nhiên điều đó không phải là tuyệt đối, trong thời buổi hiện đại, tôi cũng không đánh giá cao những con người luôn tự ti, không chịu phấn đấu để chăm sóc ngoại hình vốn có khiếm khuyết của mình. Bởi đó là biểu hiện của sự tự ngược đãi, kém phát triển và không biết cầu tiến. Ngoại hình không đẹp ta có thể cải thiện dần theo năm tháng bằng cách ăn mặc chải chuốt hợp thời, đầu tư thêm thời gian vào để khiến bản thân mình trở nên duyên dáng hơn trong mắt những người xung quanh. Như vậy bạn vừa có ngoại hình dễ nhìn lại vừa có một tâm hồn đẹp, chẳng phải cuộc sống của bạn đang dần trở nên hoàn hảo hay sao? Còn những ai đã đẹp sẵn rồi thì cần chú ý chăm chút, đầu tư vào tâm hồn, mở mang kiến thức, giữ gìn và phát huy những phẩm cách tốt đẹp, giữ cho bản thân được cái thiên lương tốt đẹp. Dù là thế nào, thì cả ngoại hình và vẻ đẹp tâm hồn cũng nên sánh bước cùng nhau, đừng để bên trọng bên khinh vì suy cho cùng nó không hề có lợi.

Tóm lại, qua các phân tích thì tôi khẳng định rằng câu nói “Tốt gỗ hơn tốt nước sơn” của ông cha ta vẫn còn nguyên giá trị cho đến ngày hôm nay. Vẻ ngoài xấu có thể cải thiện bằng nhiều cách, đặc biệt là hiện tượng “tâm sinh tướng” tâm hồn đẹp thì ngoại hình cũng trở nên tươi sáng hơn. Còn nếu có một ngoại hình đẹp nhưng lòng dạ tiểu nhân, độc ác thì cũng khó lòng mà trở nên đẹp đẽ được, bởi nhân gian vẫn có câu “Giang sơn dễ đổi bản tính khó dời” là vậy. Thế nhưng chúng ta nên hiểu rằng câu nói ấy không hề loại vẻ đẹp ngoại hình ra khỏi quan niệm thẩm mỹ của con người, mà nó nhằm khuyến khích con người chú ý hơn đến những giá trị nội tại bên trong, đồng thời cũng có những đầu tư đúng mực vào nét đẹp bên ngoài.

Tất cả các sự vật đều có hai mặt: nội dung và hình thức. Mặt nội dung còn gọi là chất lượng của sản phẩm thường được đánh giá cao. Thực tế cho thấy các đồ vật (giường, tủ, bàn ghế,…) làm bằng gỗ tốt, gỗ quý có thời gian sử dụng rất lâu dài và càng về sau càng đẹp. Người ta chỉ cần bào nhẵn rồi đánh bóng chúng bằng một lớp vecni là đủ. Trong khi đó, những đồ dùng bằng gỗ xấu, gỗ tạp bên ngoài lại hay được sơn phết hào nhoáng. Dù có đẹp đến đâu chăng nữa thì chúng cũng rất mau hỏng. Vì thế cho nên mọi người chuộng tốt, chuộng bền mà coi nhẹ hình thức của đồ vật. Nghĩa đen của câu tục ngữ trên là như vậy.

Nhưng cũng như bao câu tục ngữ khác, câu Tốt gỗ hơn tốt nước sơn còn hàm chứa một ý nghĩa sâu sắc hơn. Đó là lời khuyên thiết thực, đúng đắn về cách nhìn nhận, đánh giá con người. Chúng ta thấy rõ tính nhất quán trong việc khẳng định sự hơn hẳn của nội dung bên trong so với hình thức bên ngoài. Lời khuyên này rất đúng vì nó được đúc kết từ kinh nghiệm sống của nhiều thế hệ. Đánh giá một con người cần phải trải qua thời gian khá dài, không thể chủ quan, hồ đồ, rất dễ dẫn đến sai lầm, thậm chí gây nên những hậu quả tai hại khó lường.

Tại sao người xưa cho rằng nội dung bên trong (phẩm chất tốt) hơn hẳn hình thức bên ngoài? Điều mà ai cũng phải thừa nhận là người có đạo đức tốt, trình độ hiểu biết sâu rộng, năng lực làm việc cao sẽ làm được nhiều việc hữu ích cho bản thân, gia đình và xã hội. Ngược lại, không có được những phẩm chất tốt đẹp ấy thì khó có thể thành công trên đường đời, cho dù con người ấy hình thức bên ngoài có hào nhoáng, đẹp đẽ đến đâu chăng nữa. Người xưa đã dùng cách gọi hàm ý châm biếm những kẻ chỉ có hình thức bên ngoài, hay dùng hình thức bên ngoài để lừa bịp người khác, để che giấu những xấu xa, khuyết điểm bên trong… là loại Tốt mã giẻ cùi, nói thẳng ra là vô dụng, chẳng có giá trị gì.

Trên cơ sở quan điểm của người xưa, ngày nay chúng ta nên đánh giá con người như thế nào cho đúng? Chúng ta đều biết là giữa nội dung và hình thức có mối tương quan với nhau. Nội dung quyết định hình thức, hình thức làm tăng thêm giá trị cho nội dung. Vì vậy, khi nhận xét đánh giá về một người nào đó, chúng ta hãy bình tĩnh, sáng suốt tìm hiểu, phân tích để có được những kết luận đúng đắn và chính xác nhất.

Thống nhất với quan điểm của người xưa, chúng ta vẫn lấy phẩm chất (đạo đức, tài năng,…) làm tiêu chuẩn cơ bản, làm thước đo giá trị con người. Hãy căn cứ vào chất lượng và mục đích của công việc mà đánh giá người tốt, kẻ xấu và hãy đặt người ấy vào mối quan hệ với gia đình, nhà trường, xã hội. Người tốt là người có lương tâm và trách nhiệm với bản thân, với mọi người.

Chú trọng nội dung nhưng chúng ta cũng không nên xem nhẹ hình thức, bởi hình thức phần nào phản ánh nội dung. Xưa nay, các bậc vĩ nhân, các nhà bác học… thường rất giản dị. Giản dị nhưng nghiêm túc và tôn trọng mình, tôn trọng người khác. Trái lại, những kẻ thích phô trương hình thức thì bên trong lại hời hợt và trống rỗng. Nếu kết hợp được một cách hài hòa giữa nội dung và hình thức, tất nhiên giá trị con người sẽ tăng lên rất nhiều.

Tuy câu tục ngữ “Tốt gỗ hơn tốt nước sơn” xuất hiện đã khá lâu nhưng cho đến nay nó vẫn giữ nguyên giá trị. Câu tục ngữ là một lời khuyên sáng suốt, thiết thực trong cách đánh giá sự vật và con người trong mọi hoàn cảnh, đồng thời đó cũng là lời cảnh tỉnh đối với những ai chỉ chạy theo hình thức hào nhoáng bên ngoài mà quên đi phẩm chất tốt đẹp – yếu tố cơ bản tạo nên giá trị đích thực của một con người.

Trong cuộc sống hàng ngày cũng có lúc ta đã lầm lẫn khi đánh giá một sự vật, một con người, khi thì dựa vào cái hình thức hào nhoáng bên ngoài mà quên đi cái nội dung, bản chất bên trong của con người họ khi thì ngược lại. Lúc ấy ta lại nhớ đến câu tục ngữ:

“Tốt gỗ hơn tốt nước sơn”.

Chúng ta hiểu gì về câu tục ngữ này? Phải chăng đây là kinh nghiệm sống quý báu mà ông cha ta để lại cho chúng ta suy ngẫm, học hỏi?

Câu tục ngữ đã cho xuất hiện hai sự vật “gỗ” và “nước sơn”. Gỗ là chất liệu để tạo nên một vật dụng như là tủ, bàn, ghế… còn nước sơn là chất liệu để quét lên làm cho cái tủ, cái bàn thêm đẹp thêm bền. Nghĩa đen là như vậy nhưng ý nghĩa sâu xa của câu tục ngữ bao hàm một lời khuyên về cách nhìn chín chắn: hãy coi trọng cái giá trị đích thực, cái nội dung bên trong của một con người. Đừng bao giờ để cái hình thức xa hoa, hào nhoáng bên ngoài lừa dối, quyến rũ ta.

Bất kì câu tục ngữ nào cũng là sự đúc kết những kinh nghiệm sống quý báu của biết bao thế hệ con người. Tổ tiên ta cũng đã trải qua bao thất vọng, vấp váp mới rút ra được chân lí “Tốt gỗ hơn tốt nước sơn”. Khi đánh giá một sự vật, ta phải coi trọng chất lượng của nó. Có khi người ta chỉ trọng đến cái lớp sơn bóng nhoáng bên ngoài của một cái tủ mà mua về rồi không dùng được vì chất gỗ bên trong là một thứ gỗ mục rữa, sâu mọt. Một sản phẩm có mẫu mã tốt, có trang trí đẹp đến bao nhiêu mà chất lượng không tốt, không bền thì cũng không hữu dụng. Chỉ có một chất gỗ tốt mới tạo nên một đồ dùng có giá trị và lâu bền. Một sản phẩm có chất lượng tốt càng được nhiều người ưa thích, càng bán đắt giá. Đó là cách đánh giá, cách nhìn chung về giá trị của một đồ vật.

Trong cuộc sống, mỗi sự vật, mỗi con người không phải lúc nào cũng thống nhất trọn vẹn cả mặt nội dung lẫn hình thức. Có người bản chất xấu xa nhưng khéo lừa bịp bằng cái vỏ hào nhoáng, bảnh bao bên ngoài. Một kẻ bất tài thường đội lốt người hiểu biết. Một người độc ác thường nói lời đạo đức. Một khuôn mặt xinh đẹp nhưng chưa hẳn là đẹp hoàn toàn vì có lúc ẩn hiện dưới khuôn mặt ấy là một tâm hồn trống rỗng. Chúng ta phải thật sự tỉnh táo, thận trọng đối với những con người đó. Khi cần chọn lựa, ta hãy chọn lấy cái bản chất làm căn bản, hãy vứt bỏ cái vẻ bề ngoài đẹp đẽ, lành lặn mà bên trong mục rỗng, vô vị. Một con người có đạo đức, tài năng dẫu ăn mặc tầm thường nhưng thật sự được kính trọng nể nang. Quan hệ với con người chúng ta phải dựa trên phẩm chất đạo đức, năng lực của người đó. Chúng ta phải hiểu rằng cái chân giá trị của con người chính là đạo đức, tài năng, trí tuệ.

Nhưng trong thực tế cuộc sống, chẳng lẽ chỉ xem trong cái nội dung bản chất bên trong mà lãng quên mặt hình thức? Một món hàng tốt, chất lượng tốt nếu có bao bì xinh xắn, trang trí đẹp lại càng có giá trị. Hình thức bên ngoài làm tăng thêm giá trị bên trong của món hàng. Cái tủ được làm bằng chất gỗ tốt mà lại có nước sơn bóng loáng hẳn làm ta vừa lòng và sẵn sàng mua. Một con người có học vấn, đạo đức lại ăn nói lịch sự, thanh nhã, ăn mặc gọn gàng đẹp đẽ càng làm cho ta thêm quý trọng hơn là con người tuy có đạo đức nhưng ăn nói cục cằn, thô lỗ, ăn mặc xộc xệch. Ta thực sự hiểu được cái đẹp lí tưởng của con người vốn là cả nội dung lẫn hình thức.

Advertisement

Vậy để nhận xét, đánh giá một sự vật, một con người, ta phải dựa trên cơ sở nội dung lẫn hình thức. Nội dung và hình thức phải trọn vẹn bổ sung cho nhau để đánh giá được chính xác, đầy đủ. Chúng ta hãy coi trọng nội dung vì trước hết nó là cốt lõi tạo nên giá trị bên trong, còn hình thức góp phần tạo nên cái đẹp, cái bền cho vật dụng. Khi đánh giá ta phải coi trọng cái chất lượng của vật cũng như khi nhận xét về một con người ta phải chú ý đến thành quả công việc của họ, xem xét mối quan hệ tình cảm của họ đối với gia đình, xã hội. Đó là cách hiệu quả, cách áp dụng đúng đắn nhất phương châm xử thế mà câu tục ngữ đã khuyên dạy chúng ta.

“Tốt gỗ hơn tốt nước sơn” – câu tục ngữ đã cho ta một phương châm đúng đắn về cách nhìn, cách sống và cách quan hệ trong cuộc sống. Chúng ta cần tu dưỡng đạo đức, rèn luyện tài năng để trở thành con người toàn diện về nội dung lẫn hình thức. Hiểu được câu tục ngữ, vận dụng nó một cách đúng đắn chúng ta sẽ bớt lầm lẫn, vấp ngã trong cuộc đời đồng thời ta cũng biết cách tự rèn luyện nâng cao mình hơn nữa. Ta phải sống thực chất bằng chính giá trị con người mình, đừng mánh khóe lừa dối, giả tạo. Tốt gỗ hơn tốt nước sơn nhưng nếu tốt cả gỗ và tốt cả nước sơn thì đó là điều mà ta cần mong ước, phấn đấu, hướng tới…

Người xưa có câu: “Trông mặt mà bắt hình dong”, quan niệm coi trọng về hình thức, lấy hình thức làm thước đo có lẽ đã in sâu trong tư tưởng của chúng ta, tuy nhiên cha ông ta cũng khuyên con cháu: “Tốt gỗ hơn tốt nước sơn/Xấu người đẹp nết còn hơn đẹp người”.

Đầu tiên, chúng ta cần hiểu ý nghĩa của câu tục ngữ. Vế đầu của câu tục ngữ là nói đến cách đáng giá về gỗ: “Tốt gỗ hơn tốt nước sơn”. Gỗ là nguyên liệu dùng để làm nên đồ dùng trong nhà, xưa kia còn là dùng để làm nhà, làm cột,… là nguyên liệu vô cùng quan trọng mà biểu hiện cho sự vững chãi vì vậy, gỗ càng tốt, đồ dùng sẽ càng bền, dùng càng lâu. Phẩm chất của gỗ là giá trị bên trong, nội tại của gỗ mà ta không thể nhìn bằng mắt thường còn nước sơn là lớp chất phủ bên ngoài gỗ để làm tăng thêm vẻ đẹp cho tấm gỗ ấy. Nước sơn càng tốt thì trông tấm gỗ càng đẹp.

Thế nhưng khi dùng đồ vật, người dùng khôn ngoan là người biết ưu tiên cho tính chất bền của đồ vật ấy, còn nước bên ngoài chỉ là phụ. Nếu một tấm gỗ tốt mà được sơn bằng lớp sơn không tốt thì đồ vật mà gỗ làm nên vẫn tốt cho sử dụng nhưng tấm gỗ không tốt dù có được sơn bằng lớp sơn tốt đến mấy cũng sẽ nhanh hỏng, không bền. Vậy thì nên ưu tiên tấm gỗ có phẩm chất tốt hơn bởi hình thức không quá quan trọng, dù đẹp đến đâu mà người sử dụng không thể sử dụng được thì cũng chỉ là một đồ bỏ đi, còn dù tấm gỗ xấu mà giúp ích cho người sử dụng thì đáng được trân trọng. Điều này cũng đúng với cách nhìn nhận con người.

Phẩm chất nội tại của gỗ chính là cái nết của con người, phẩm chất bên trong con người còn lớp sơn chỉ là hình thức, vẻ bề ngoài. Một người mà có vẻ bề ngoài đẹp mà tấm lòng không tốt thì không đáng được yêu quý, ngược lại, tuy bề ngoài không may mắn được đẹp mà có tấm lòng đẹp thì đáng được trân trọng. Hình thức là thứ rồi sẽ qua đi theo thời gian và chỉ là cái nhất thời, chỉ có bản chất của một con người mới theo người đó mãi mãi và là thứ tiên quyết để quyết định giá trị của con người đó. Hình thức đôi khi chỉ là yếu tố may mắn mà có còn tính nết là cả một quá trình rèn luyện và tính nết của con người quy định đó là kẻ xấu hay người tốt, là người đáng được trân trọng hay không.

Chúng ta có thể thấy trong chuyện “Chí Phèo” của Nam Cao, Bà Ba Bá Kiến xinh đẹp, quyến rũ lại là nguyên nhân khiến cho Chí Phèo từ một người lương thiện phải vào tù, trở thành một “con quỷ” còn Thị Nở tuy xấu xí nhưng lại biết chăm sóc cho Chí Phèo khi bệnh nặng, không kì thị Chí như những người làng, tấm lòng của Thị đã cảm hóa được Chí, khiến cho Chí có khát khao quay về con đường lương thiện. Đúng là “Xấu người đẹp nết còn hơn đẹp người”.

Tuy vậy, chúng ta cũng cần hiểu là trong thời buổi như hiện nay, hình thức cũng vô cùng quan trọng vì vậy hãy biết chăm sóc bản thân cả về nhân hình lẫn nhân cách để trở thành một người vừa đẹp người lại vừa đẹp nết, sẽ được nhiều người yêu quý cũng như gặt hái được nhiều thành công hơn. Bởi một tấm gỗ tốt mà được sơn bằng nước sơn đẹp thì sẽ trở nên càng có giá trị hơn.

Nhưng cũng cần phê phán những kẻ chỉ biết coi trọng hình thức, ý lại có một hình thức đẹp mà không tu dưỡng đạo đức, đồng thời cũng lên án những kẻ coi thường, lấy hình thức không đẹp của người khác ra làm trò cười. Hình thức không phải là tất cả, con người ta coi trọng nhau là ở tính nết, cách sống, cách đối nhân xử thế. Hình thức chỉ là nhất thời chỉ có tấm lòng mới giúp cho người gần người hơn.

Văn Mẫu Lớp 12: Đoạn Văn Nghị Luận Về Mục Tiêu Trong Cuộc Sống (Dàn Ý + 11 Mẫu) Viết Đoạn Văn Nghị Luận Về Một Tư Tưởng Đạo Lí

Viết đoạn văn về mục tiêu trong cuộc sống

Dàn ý viết đoạn văn về mục tiêu trong cuộc sống

Viết đoạn văn về ý nghĩa của việc xác lập mục tiêu

Viết đoạn văn về mục tiêu trong cuộc sống

Dàn ý viết đoạn văn về mục tiêu trong cuộc sống

1. Mở đoạn

Giới thiệu vấn đề cần nghị luận: mục tiêu sống. (học sinh tự lựa chọn cách viết mở bài trực tiếp hoặc gián tiếp cho bài làm văn của mình tùy thuộc vào khả năng của từng người).

2. Thân đoạn

a. Giải thích

Mục tiêu sống: những suy nghĩ, hành động tích cực của con người, hướng đến những điều tốt đẹp và cao cả.

Mục tiêu sống ảnh hưởng quan trọng đến suy nghĩ và hành động của con người đặc biệt là các bạn thanh niên hiện nay.

b. Phân tích

– Biểu hiện của người sống có mục tiêu

Biết phấn đấu, vươn lên trong cuộc sống của mình, nỗ lực hết sức để mong muốn đạt được những thành tựu cho riêng mình.

Khi vấp ngã không chán nản, buông xuôi mà tìm cách đứng dậy sau vấp ngã để đi tiếp con đường mình đã chọn.

– Lợi ích của việc sống có mục tiêu

Mang đến cho con người những thành quả sau bao nỗ lực, cố gắng.

Giúp chúng ta tôi luyện những phẩm chất quý giá: chăm chỉ, cần cù, lạc quan.

Khiến chúng ta được người khác yêu thương, tin tưởng và học tập theo.

c. Chứng minh

Học sinh lấy dẫn chứng về những người trẻ sống có lí tưởng, có mục tiêu nổi bật, tiêu biểu mà được nhiều người biết đến.

d. Phản biện

Trong xã hội vẫn còn nhiều người sống không có ước mơ, hoài bão, vô cảm hoặc có ước mơ nhưng không cố gắng thực hiện mà chỉ hão huyền, viển vông về một cuộc sống tốt đẹp hơn → những người này đáng bị phê phán, chỉ trích.

3. Kết đoạn

Khái quát lại tầm quan trọng của mục tiêu sống, đồng thời rút ra bài học, liên hệ bản thân.

Viết đoạn văn về ý nghĩa của việc xác lập mục tiêu Đoạn văn mẫu 1

Trong xã hội, có người công thành danh toại, cũng có kẻ suốt đời lao đao, lận đận chẳng làm nên chuyện gì đáng kể. Có người sống không hề băn khoăn về mục tiêu sống, tựa như con tàu ra biển không xác định hướng đi, sống không biết ai, chết chẳng ai hay. Lại có người ý đồ thì rất lớn mà sự nghiệp rất nhỏ. Chuyện thành công hay thất bại do rất nhiều nguyên nhân tạo nên, trong đó chủ yếu là tính “mục tiêu”. Con người phải có mục tiêu sống. Mục tiêu sống tốt đẹp là nguồn động viên con người phấn đấu để đạt được kết quả tốt đẹp hơn, sống hữu ích hơn trong xã hội. “Mục tiêu” là kim chỉ nam của con người cho nên con người không thể sống, làm việc mà không có “mục tiêu” nào cả. Con người có trí tuệ soi sáng nên thường đặt ra yêu cầu cụ thể trước mỗi việc làm hay còn gọi là mục tiêu hành động và trí tuệ chi phối mọi suy nghĩ. Loài người thường dùng lí trí để phân biệt đúng sai, nện hay không nên khi hành động. Hành động thiếu mục đích thường không có hiệu quả. Trước khi làm một việc gì, con người thường đặt ra “mục tiêu” ấy. Từ trước tới nay, đã có bao nhiêu nhà bác học nghiên cứu, tìm tòi, sáng tạo trên mọi lĩnh vực để đem lại những kết quả tốt đẹp nhất, nhằm mục đích cải thiện đời sống con người. “Mục tiêu” sẽ mở ra phương hướng, dẫn dắt mọi hoạt động của con người. Có “mục tiêu”, con người mới có động lực thúc đẩy trong công việc, có niềm vui và niềm tin vào việc mình làm.

Đoạn văn mẫu 2

Les Brown đã từng nói: “Tôi tin cuộc sống là một chuyến hành trình, thường khó khăn và đôi khi tàn nhẫn không ngờ, nhưng chúng ta đều được chuẩn bị tốt cho nó nếu chúng ta biết nắm lấy tài năng của bản thân và cho phép chúng nảy nở”. Câu nói này đã cho chúng ta thấy, con người luôn muốn có được thành công nhưng điều này không dễ, để có được thứ mình muốn, trước hết ta cần bắt đầu với việc xác định mục tiêu trong cuộc sống. Mục tiêu trong cuộc sống chính là những mong muốn, khát khao những dự định mà con người luôn hướng đến trên hành trình trải nghiệm. Mục tiêu giống như chiếc la bàn, người xác lập được mục tiêu sẽ biết được hướng đi của mình; nó soi đường chỉ lối, bám dữ ta khỏi những cám dỗ để đi đúng đường. Bill Gates – doanh nhân nổi tiếng về cuộc cách mạng máy tính cá nhân trước khi thành công với nó, ông đã đặt ra những mục tiêu nhất định. Ông đã từng tuyên bố, sẽ trở thành triệu phú vào năm 30 tuổi, nhưng thực tế, năm 31 tuổi, ông đã là tỷ phú. Chính việc xác lập mục tiêu đúng đắn, Bill Gates đã giúp cả nhân loại sử dụng phần mềm tiện ích và hữu hiệu cho máy tính như thế. Đặc biệt, đối với những người trẻ hiện nay chưa tìm được mục tiêu khiến bản thân đánh mất cơ hội thì việc xác lập mục tiêu góp phần tạo động lực, nuôi dưỡng đam mê; khơi dậy, khao khát chinh phục những kế hoạch. Bên cạnh đó, xác định mục tiêu thôi thúc con người phấn đấu, nỗ lực để vươn lên những khó khăn, hướng tới một lối sống tích cực và có giá trị. Những chiến binh áo trắng, áo xanh đã rất vững tâm khi xác lập mục tiêu đúng đắn trước đại dịch Covid-19, họ đã nguyện lao mình vào biển lửa tiền tuyến để cống hiến, để sống trọn với sức trẻ, của lòng nhiệt huyết. Cảm ơn những người anh hùng thầm lặng đã hy sinh tuổi trẻ, sức trẻ để giúp mọi người sớm quay về với cuộc sống bình thường. Khi có mục tiêu ta sẽ dễ dàng kết nối với những người cùng chí hướng, phát huy năng lực của mình, nó sẽ khơi dậy cảm hứng, lòng ham sống và sẵn sàng thay đổi mọi người. Để có được thành công, chúng ta không nên dừng lại ở việc xác lập mục tiêu mà cần phải thay đổi đến cùng bởi vì mục tiêu dù giá trị đến đâu mà không được thực hiện hóa thì cũng trở nên vô nghĩa. Chính chúng ta phải là người chinh phục nấc thang của cuộc sống, người thành công là người có mục tiêu, có giấc mơ, có kế hoạch và theo đuổi chúng.

Đoạn văn mẫu 3

Cuộc sống sẽ trở nên vô nghĩa nếu bạn sống mà không biết bản thân mình cần gì, muốn gì và sẽ trở thành người như thế nào. Chính vì thế, chúng ta có thể khẳng định mục tiêu sống có vai trò và ý nghĩa vô cùng quan trọng đối với cuộc sống con người. Mục tiêu sống là những suy nghĩ, kim chỉ nam, là ước mơ, khao khát mà con người muốn đạt được thành tựu tốt đẹp trong cuộc sống cũng như chạm tay đến thành công. Mỗi người cần có cho mình một mục tiêu sống rõ ràng và cố gắng thực hiện hóa lí tưởng đó. Người sống có mục tiêu, lí tưởng là những người biết phấn đấu, vươn lên trong cuộc sống của mình, nỗ lực hết sức để mong muốn đạt được những thành tựu cho riêng mình; khi vấp ngã không chán nản, buông xuôi mà tìm cách đứng dậy sau vấp ngã để đi tiếp con đường mình đã chọn. Mục tiêu sống là động lực để con người vươn lên, tạo dựng cho mình những giá trị tốt đẹp, hướng chúng ta đến những điều hay lẽ phải, tránh xa cái xấu, cái ác. Người sống không có mục tiêu chỉ là tồn tại, sẽ cảm thấy cuộc đời thật nhàm chán, không có gì thú vị, lâu dần dẫn đến suy nghĩ và hành vi tiêu cực. Mục tiêu sống mang lại nhiều lợi ích cho con người, nó khiến cho chúng ta tốt hơn, rèn luyện được những đức tính tốt đẹp khác cũng như mang con người đến gần nhau hơn. Mỗi người học sinh là người chủ nhân tương lai của đất nước, chính vì thế chúng ta trước hết phải sống có ước mơ, hoài bão, nỗ lực học tập, trau dồi bản thân để thực hiện ước mơ đó. Tiếp đến là sống chan hòa, yêu thương mọi người, bỏ qua cái tôi cá nhân để hướng đến cái ta chung để cống hiến nhiều hơn cho xã hội. Cuộc đời quá ngắn để lãng phí cũng như vô định. Mỗi người hãy xác định cho mình một mục tiêu có tác động ý nghĩa to lớn đến mình và cố gắng thực hiện những mục tiêu đó thật tốt để thấy cuộc sống ý nghĩa hơn.

Đoạn văn mẫu 4

Mỗi người trẻ chúng ta được sống trong nền hòa bình và tự do như hiện nay là một điều vô cùng may mắn. Nhưng không vì thế mà chúng ta bàng quang với xã hội mà ngay cả trong thời bình, chúng ta cũng cần có trách nhiệm với que hương đất nước, trách nhiệm này trong suy nghĩ của mỗi người là khác nhau, tuy nhiên, là thanh niên, chúng ta cần sống có cho mình mục tiêu sống. Mục tiêu sống là những suy nghĩ, hành động tích cực của con người, hướng đến những điều tốt đẹp và cao cả. Mục tiêu sống ảnh hưởng quan trọng đến suy nghĩ và hành động của giới trẻ đặc biệt là các bạn thanh niên hiện nay. Một lí tưởng sống, mục tiêu sống tốt đẹp của thanh niên hiện nay đó chính là việc cố gắng học tập, tu dưỡng đạo đức, vươn lên trong công việc để bản thân mình phát triển hơn. Người có mục tiêu sống là người biết phấn đấu, vươn lên trong cuộc sống của mình, nỗ lực hết sức để mong muốn đạt được những thành tựu cho riêng mình. Khi vấp ngã họ không chán nản, buông xuôi mà tìm cách đứng dậy để đi tiếp con đường mình đã chọn. Bên cạnh đó, người có mục tiêu sống còn là người biết yêu thương những người xung quanh, luôn muốn lan tỏa những thông điệp tích cực ra xã hội, làm cho xã hội này tốt đẹp hơn. Việc sống có mục tiêu mang đến cho con người nhiều lợi ích, ý nghĩa tốt đẹp: nó giúp ta đạt những thành quả sau bao nỗ lực, cố gắng. Ngoài ra, chúng ta còn tôi luyện những phẩm chất quý giá: chăm chỉ, cần cù, lạc quan… khiến ta được người khác yêu thương, tin tưởng và học tập theo. Tuy nhiên, trong xã hội hiện nay vẫn còn nhiều người sống không có ước mơ, hoài bão, vô cảm, bàng quang với cuộc sống của mình và với vận mệnh chung của đất nước. Lại có những người có ước mơ nhưng không cố gắng thực hiện mà chỉ hão huyền, viển vông về một cuộc sống tốt đẹp hơn,… những người này đáng bị phê phán, chỉ trích. Mục tiêu sống của mỗi người là không giống nhau, tuy nhiên nếu tất cả cùng cố gắng, chúng ta sẽ xây dựng được một đất nước vững mạnh. Không một ai là hoàn hảo, nhưng khi ta biết cố gắng hoàn thiện bản thân và vươn lên phía trước, chúng ta sẽ đạt được những thành quả xứng đáng với công sức bỏ ra.

Đoạn văn mẫu 5

Mục tiêu là điểm đích mà chúng ta hướng đến trong cuộc đời, là một dự định, một định hướng được đề ra trước mắt chúng ta. Có mục tiêu thì chúng ta mới có động lực để thúc đẩy mình và nếu như không có mục tiêu thì chúng ta sẽ giống như con thuyền giữa đại dương không biết đâu là bến bờ. Bản thân mỗi người phải đề ra cho mình mục tiêu vì đó chính là tương lai của bản thân. Đừng nghĩ là nó quá lớn với bạn vì bạn sẽ đâm ra tâm lí sợ hãi với chính bản thân. Đôi khi bạn gặp thất bại nhưng thất bại lại là chỗ dựa lớn nhất cho sự trưởng thành. Đừng sống không có ước mơ, vì như thế bạn đã để tâm hồn tàn lụi ngay khi còn sống. Nếu con người không có mục tiêu, không có ước mơ thì đó chính là cuộc sống vô nghĩa nhất. Cần phê phán những kẻ sống mà không có mục tiêu vì đó là những kẻ sống “gửi”, ăn bám gia đình, bạn bè. Hãy xây dựng cho mình một mục tiêu, một ước mơ để không lãng phí một cuộc đời.

Đoạn văn mẫu 6

Trong cuộc sống ai mà chẳng có ước mơ dù to hay nhỏ dù lớn hay bé. Nói về vấn đề này Nick đã bày tỏ: Không có mục tiêu nào quá lớn, không có ước mơ nào quá xa vời. Mục tiêu là đích hướng đến, là điều đặt ra cần đạt được. Ước mơ là mong muốn, ao ước đạt được điều tốt đẹp trong tương lai. Như vậy, thông điệp mà Nick muốn gửi gắm đến chúng ta là: Mỗi người cần xác định mục tiêu cho cuộc sống của mình, hãy biết ước mơ và nỗ lực cố gắng để đạt được mục tiêu, ước mơ đó bởi không có gì là “quá lớn”, quá “xa vời”. Câu nói của Nick hoàn toàn đúng. Với mỗi người, mục tiêu chính là động lực thúc đẩy sự phấn đấu của bản thân. Nếu không có mục tiêu thì chúng ta sẽ mất đi phương hướng, giống như con thuyền giữa đại dương không biết đâu là bến bờ. Mỗi người cần đề ra cho mình những mục tiêu để vươn tới vì đó chính là tương lai của bản thân. Đừng nghĩ là nó quá lớn với bạn vì như vậy bạn sẽ luôn lo sợ, thiếu tự tin trong cuộc sống và khó thành công. Trong cuộc sống, không có ước mơ nào quá xa vời vì khi có ước mơ, chúng ta sẽ không ngừng phấn đấu, trau dồi năng lực bản thân để tiến đến gần với ước mơ đó. Ước mơ cũng giống như mục tiêu, nó sẽ giúp ta thêm kiên định ý chí. Sống mà không có ước mơ là bạn đã để tâm hồn tàn lụi ngay khi còn sống. Ước mơ giống như con đường chưa có nhưng chúng ta sẽ khám phá và vượt qua. Nếu con người sống không có ước mơ chắc chắn cuộc sống sẽ vô nghĩa. Những con người sống thiếu ước mơ, mục tiêu họ sẽ sống nhờ, sống gửi, sống dựa dẫm vào người khác, ăn bám gia đình. Thiếu chí hướng, mục đích, ước mơ nghĩa là đã “chết ngay khi còn sống”. Đây là một câu nói có ý nghĩa vô cùng lớn lao vì nó khẳng định được chân lý của sự thành công. Từ đó mỗi người cần suy nghĩ nghiêm túc về chính bản thân mình để có thể vươn đến sự hoàn thiện. Sống phải có ước mơ và mục tiêu riêng cho mình. Không có ước mơ, không có mục tiêu thì mọi cái sẽ quá xa vời với mỗi chúng ta. Mỗi người phải xây dựng cho mình một ước mơ, một mục tiêu, một phương hướng cụ thể nhằm đạt được những thành công trong cuộc sống; không ngừng rèn luyện nhân cách, bản lĩnh, dám nghĩ, dám làm để đi đến thành công.

Viết đoạn văn về mục tiêu trong cuộc sống Đoạn văn mẫu 1

Trong cuộc sống ai mà chẳng có ước mơ dù to hay nhỏ dù lớn hay bé. Nói về vấn đề này Nick đã bày tỏ: Không có mục tiêu nào quá lớn, không có ước mơ nào quá xa vời. Mục tiêu là đích hướng đến, là điều đặt ra cần đạt được. Ước mơ là mong muốn, ao ước đạt được điều tốt đẹp trong tương lai. Như vậy, thông điệp mà Nick muốn gửi gắm đến chúng ta là: Mỗi người cần xác định mục tiêu cho cuộc sống của mình, hãy biết ước mơ và nỗ lực cố gắng để đạt được mục tiêu, ước mơ đó bởi không có gì là “quá lớn”, quá “xa vời”. Câu nói của Nick hoàn toàn đúng. Với mỗi người, mục tiêu chính là động lực thúc đẩy sự phấn đấu của bản thân. Nếu không có mục tiêu thì chúng ta sẽ mất đi phương hướng, giống như con thuyền giữa đại dương không biết đâu là bến bờ. Mỗi người cần đề ra cho mình những mục tiêu để vươn tới vì đó chính là tương lai của bản thân. Đừng nghĩ là nó quá lớn với bạn vì như vậy bạn sẽ luôn lo sợ, thiếu tự tin trong cuộc sống và khó thành công. Trong cuộc sống, không có ước mơ nào quá xa vời vì khi có ước mơ, chúng ta sẽ không ngừng phấn đấu, trau dồi năng lực bản thân để tiến đến gần với ước mơ đó. Ước mơ cũng giống như mục tiêu, nó sẽ giúp ta thêm kiên định ý chí. Sống mà không có ước mơ là bạn đã để tâm hồn tàn lụi ngay khi còn sống. Ước mơ giống như con đường chưa có nhưng chúng ta sẽ khám phá và vượt qua. Nếu con người sống không có ước mơ chắc chắn cuộc sống sẽ vô nghĩa. Những con người sống thiếu ước mơ, mục tiêu họ sẽ sống nhờ, sống gửi, sống dựa dẫm vào người khác, ăn bám gia đình. Thiếu chí hướng, mục đích, ước mơ nghĩa là đã “chết ngay khi còn sống”. Đây là một câu nói có ý nghĩa vô cùng lớn lao vì nó khẳng định được chân lý của sự thành công. Từ đó mỗi người cần suy nghĩ nghiêm túc về chính bản thân mình để có thể vươn đến sự hoàn thiện. Sống phải có ước mơ và mục tiêu riêng cho mình. Không có ước mơ, không có mục tiêu thì mọi cái sẽ quá xa vời với mỗi chúng ta. Mỗi người phải xây dựng cho mình một ước mơ, một mục tiêu, một phương hướng cụ thể nhằm đạt được những thành công trong cuộc sống; không ngừng rèn luyện nhân cách, bản lĩnh, dám nghĩ, dám làm để đi đến thành công.

Advertisement

Đoạn văn mẫu 2

“Mục tiêu” là điểm là đích mà chúng ta hướng đến trong cuộc đời, là một dự định, một định hướng được đề ra trước mắt ta. Có mục tiêu thì chúng ta mới có động lực để thúc đẩy mình và nếu không có mục tiêu thì chúng ta sẽ giống như con thuyền giữa đại dương không biết đâu là bến bờ. Bản thân mỗi người phải đề ra cho mình mục tiêu vì đó chính là tương lai của bản thân. Đừng nghĩ là nó quá lớn với bạn vì nghĩ nó quá lớn bạn lại đâm ra sợ hãi với chính bản thân. Đôi khi bạn gặp thất bại nhưng thất bại lại là chỗ dựa lớn nhất cho sự trưởng thành. Đừng sống không có ước mơ, vì như thế bạn đã để tâm hồn tàn lụi ngay khi còn sống. Ước mơ giống như con đường chưa có nhưng sẽ khám phá và vượt qua. Và thử hỏi nếu con người sống mà không có ước mơ ? Chắc chắn đó là cuộc sống vô nghĩa nhất. Cần phê phán những kẻ sống thiếu mục tiêu vì những kẻ đó là những kẻ sống nhờ sống gửi, sống ký sinh lên người khác; ăn bám gia đình, bạn bè; thiếu chí hướng, mục đích, ước mơ nghĩa là đã “chết ngay khi còn sống”. Trong cuộc sống mỗi con người hãy xây dựng cho mình một mục tiêu, một ước mơ. Hãy thực hiện nó vì nó không có gì “quá lớn”, không có gì quá “xa vời”.

Đoạn văn mẫu 3

Trong cuộc sống chúng ta ai cũng khao khát thành công nhưng lại không biết làm thế nào để thành công. Có lẽ để thành công thì cần phân chia mục tiêu hợp lý và thực hiện nó. Chúng ta có trí tuệ soi sáng nên cần đặt ra yêu cầu cụ thể trước mỗi việc làm hay còn gọi là mục tiêu hành động và trí tuệ chi phối mọi suy nghĩ. Chúng ta cần phân chia mục tiêu rõ ràng vì nó vô cùng quan trọng. Nếu biết phân chia mục tiêu thì sẽ hành động một cách có hiệu quả. Trước khi làm một việc gì, con người thường đặt ra mục đích cần phải đạt được rồi tìm mọi cách để thực hiện mục đích ấy. Các nhà nghiên cứu cũng vậy muốn đạt được thành tựu họ phải đặt ra mục tiêu mỗi ngày để hành động. Mục đích giúp chúng ta có động lực thúc đẩy trong công việc, có niềm vui và niềm tin vào việc mình làm. Ngược lại, nếu sống không có mục đích chúng ta sẽ trở nên vô dụng, cuộc đời mất hết ý nghĩa. Trong cuộc sống có rất nhiều công việc với trăm ngàn mục đích khác nhau; mục đích có lớn, nhỏ, xấu, tốt, tầm thường. Mỗi người đều có một mục đích sống riêng của mình. Điều quan trọng là chúng ta cần xác định rõ ràng mục tiêu và thực hiện chúng .Mục đích học tập tốt sẽ có tác dụng rất lớn đến việc hình thành và phát triển nhân cách. Việc phân chia mục tiêu là vô cùng quan trọng trong cuộc sống vì vậy chúng ta cần hành động có mục đích để đạt được ước mơ.

Đoạn văn mẫu 4

Muốn đạt được kết quả học tập tốt, mỗi học sinh cần xác định được mục đích trong học tập. Mục đích học tập của học sinh ngày nay không gì khác là nỗ lực học tập để trở thành con ngoan trò giỏi, người công dân tốt, phát triển toàn diện, trở thành người hữu ích, góp phần xây dựng gia đình, xã hội và đất nước. Việc xác định được mục đích học tập đúng đắn sẽ giúp học sinh có định hướng, ra sức say mê học tập đạt được kết quả cao nhất. Để thực hiện được mục đích ấy, mỗi học sinh phải tích cực xây dựng kế hoạch học tập đúng đắn, phù hợp với bản thân và kiên trì thực hiện kế ấy. Tích cực tu dưỡng đạo đức, siêng năng tập tốt ở lớp, ở trường và tự học ở nhà. Phải năng động, sáng tạo, tích cực đổi mới phương pháp học tập. Học từ sách vở và học trong cuộc sống. Học phải đi đôi với hành, tránh lối học tủ, học vẹt, học lệch các môn… Có ước mơ, khát khao, hoài bão lớn lao ở tương lai. Xây dựng cuộc sống trong sạch, vững mạnh, tránh xa các thói xấu và tệ nạn xã hội. Học sinh không có mục đích trong học tập chẳng khắc nào mũi tên không có đích đến, không những không có động lực học tập mà sẽ sớm chán nản và bỏ dở việc học. Bởi vậy, muốn học tập tốt nhất định phải xác định rõ mục đích trong học tập và kiên trì học tập để đạt đến mục đích ấy. Con đường phía trước do mỗi chúng ta lựa chọn. Hãy là người có lựa chọn thông minh và đúng đắn để đi đến thành công.

Văn Mẫu Lớp 9: Nghị Luận Xã Hội Về Lòng Nhân Ái 3 Dàn Ý &Amp; 31 Bài Văn Nghị Luận Xã Hội Lớp 9

Lòng nhân ái là sự thấu hiểu, sẻ chia, sẵn sàng đồng cảm, giúp đỡ những người gặp khó khăn. Với 31 bài Nghị luận về lòng nhân ái ngắn gọn, sẽ giúp các em học sinh lớp 9 hiểu rõ hơn vai trò của lòng nhân ái trong cuộc sống.

Lòng nhân ái chính là vẻ đẹp nhân cách và tâm hồn của mỗi người, nó có thể gắn bó, kết nối đưa mọi người đến gần nhau hơn. Vậy mời các em cùng tải 31 bài nghị luận lòng nhân ái về tham khảo để có thêm nhiều vốn từ, ngày càng học tốt môn Văn 9.

Dàn ý nghị luận xã hội về lòng nhân ái (3 mẫu)

Nghị luận về lòng nhân ái ngắn gọn

Nghị luận xã hội về lòng nhân ái hay nhất (29 mẫu)

Nghị luận về lòng nhân ái qua câu chuyện Người ăn xin

1. Mở bài

Giới thiệu về lòng nhân ái và nêu được đây là phẩm chất, đạo đức quý báu của người dân Việt nam

2. Thân bài

– Giải thích:

Giải thích cụm từ nhân ái theo từng từ

Làm nổi bật được lòng nhân ái là thước đo cốt cách con người Việt Nam ta

Lòng nhân ái trong thời điểm hiện hữu ở nhiều nơi. Tình đồng bào, tình yêu thương giữa con người với con người.

– Phân tích:

Cuộc sống còn nhiều hoàn cảnh khó khăn và cần giúp đỡ

Khi giúp người khác trong lúc khó khăn, bạn sẽ được mọi người yêu quý và kính trọng

Tấm lòng tương thân tương ái sẽ lan tỏa trong xã hội và nhận được điều tốt đẹp

– Chứng minh:

Lấy dẫn chứng về những con người có lòng nhân ái mà bạn biết

Lưu ý khi lấy dẫn chứng cần xác thực, nổi bật, tiêu biểu và có tầm ảnh hưởng lớn đến mọi người

– Phản biện và đánh giá:

Lòng nhân ái có thể mở rộng trên toàn thế giới và có thể hiện hữu ngay trong trường học.

Trong cuộc sống hiện nay vẫn còn người sống thờ ơ, vô cảm

Nhiều người chỉ nghĩ đến lợi ích của bản thân mà không để ý gì hay quan tâm với mọi người xung quanh.

Những người này đáng bị xã hội lên án và chỉ trích

3. Kết bài

Khái quát lại lần nữa về tầm quan trọng của lòng nhân ái

Liên hệ và rút ra bài học kinh nghiệm cho bản thân.

Cuộc sống của chúng ta có muôn vàn điều mới mẻ. Trong đó có những thứ con người cảm thấy vô cùng quý giá, trân trọng, không có bất cứ thứ gì có thể đong đếm hoặc mua bằng tiền được. Đó chính là tình yêu thương, tình yêu thương giúp con người trở nên vui vẻ, hạnh phúc. Một con người có lòng yêu thương chính là người có nhân cách đẹp và luôn hướng đến những việc hoàn mĩ hơn.

Tình yêu thương là tình cảm tốt đẹp của con người được xuất phát từ tấm lòng, từ tâm tưởng mỗi người giúp đỡ người khác không mong nhận lại được điều gì.

Trong xã hội luôn có những người kém may mắn hơn mình, họ cần sự giúp đỡ từ cộng đồng. Vậy tại sao những người có đầy đủ về hạnh phúc, vật chất lại không thể dang tay giúp đỡ họ? Có thể chúng ta giúp đỡ họ về mặt tinh thần, vật chất nhưng tất cả những điều đó đều phải xuất phát từ trong tim chứ đừng giúp đỡ với ý nghĩ điều đó là hiển nhiên.

Chúng ta khi đi đường thường gặp đèn đỏ có thấy cụ bà già yếu đi từng xe hỏi có mua vé số không thì chúng lại phớt lờ đi và không quan tâm. Nhưng khi chúng ta mua giùm cụ bà ấy một tờ vé số để cho bà vui, để cho bà có bữa cơm ăn. Khi chúng ta làm vậy chúng ta sẽ thấy thật ý nghĩa và hạnh phúc.

Ngoài những người biết quan tâm giúp đỡ người khác thì có những kẻ ích kỷ, nhỏ mọn chỉ biết sống cho riêng mình. Họ vô tâm làm ngơ trước sự khó khăn của người khác. Một số còn đối xử tệ bạc đối với những người đã tốn công sức để nuôi dưỡng họ, bỏ mặc những lời kêu thảm thiết của những đứa trẻ ở đầu đường xó chợ. Mở lòng để giúp đỡ mọi người bạn sẽ nhận lại được hạnh phúc trong tâm hồn.

Thật tuyệt vời vì trên thế giới còn có những con người đầy tình yêu thương cho người khác. Mỗi chúng ta hãy nuôi dưỡng trong trái tim mình những viên đá ngũ sắc yêu thương để tô vẽ cho cuộc đời thêm vui vẻ và hạnh phúc.

Thời gian trôi qua sẽ không lấy lại được. Mỗi con người cũng chỉ được sống một lần duy nhất trong đời, chúng ta hãy sống một cuộc đời thật trọn vẹn với tình yêu thương, sự sẻ chia với người khác. Có thể thấy, lòng nhân ái giữa con người với con người đã góp phần không nhỏ khiến cho thế giới này tốt đẹp hơn.

Vậy thế nào là lòng nhân ái? Lòng nhân ái chính là tình yêu thương giữa con người với con người, sẵn sàng đồng cảm, chia sẻ, thấu hiểu và giúp đỡ người khác khi người ta gặp khó khăn. Rộng hơn nữa chính là tình đồng bào, tinh thần đoàn kết.

Chúng ta dễ dàng nhận thấy trong xã hội hiện nay có rất nhiều mảnh đời chịu bất hạnh, đau thương, khổ cực, việc chúng ta sống tử tế, yêu thương, đùm bọc, giúp đỡ những người đó làm xoa dịu, giảm bớt nỗi đau của họ, xã hội cũng sẽ phát triển đẹp đẽ, vững mạnh hơn. Bên cạnh đó, khi giúp đỡ người khác, ta sẽ nhận lại sự kính trọng, niềm tin yêu của người khác và cả sự sẵn sàng giúp đỡ lại mình lúc mình gặp khó khăn, điều này làm lan tỏa thông điệp “cho và nhận” trong xã hội ngày càng được lan tỏa hơn. Mỗi người biết chia sẻ, yêu thương, giúp đỡ người khác sẽ góp phần làm cho xã hội này giàu tình cảm hơn, phát triển văn minh hơn.

Tuy nhiên, trong xã hội hiện nay vẫn có không ít người có tính ích kỉ, nhỏ nhen, chỉ biết đến bản thân mình mà không cần suy nghĩ cho người khác, lạnh lùng, vô cảm mặc kệ nỗi đau của đồng loại. Lại có những người giúp đỡ người khác hòng tư lợi cá nhân, trục lợi cho bản thân mình,… những người này cần bị phê phán, chỉ trích.

Mỗi người chỉ được sống một lần, chúng ta hãy sống với tấm lòng, sự tử tế, cho đi và yêu thương để làm cho xã hội này ngày càng tốt hơn, con người được sống tình cảm hơn vì vốn dĩ: “Sống là cho đâu chỉ nhận riêng mình”.

Để khuyên nhủ con người sống với nhau bằng tình cảm yêu thương chan hòa, ông cha ta đã sáng tác câu tục ngữ: “Thương người như thể thương thân”. Trong xã hội công nghiệp hóa, hiện đại hóa như hiện nay thì những tình cảm đó càng phải được đề cao, đặc biệt là lòng nhân ái.

Lòng nhân ái là tình yêu thương giữa con người với con người, sẵn sàng đồng cảm, chia sẻ, thấu hiểu và giúp đỡ người khác khi người ta gặp khó khăn. Rộng hơn nữa chính là tình đồng bào, tinh thần đoàn kết. Lòng nhân ái là một đức tính tốt và cũng là một trong những tiêu chí, là thước đo để đánh giá đạo đức, nhân cách của con người. Lòng nhân ái không phải là những điều gì quá xa xôi. Nó tồn tại ngay trong chính cuộc sống của mỗi người.

Từng biểu hiện của chúng ta dành cho nhau, cử chỉ, lời nói, hành động hay chỉ là cảm xúc dành cho nhau. Dù nó giản dị nhưng cũng đã khiến cho trái tim nhau trở nên ấm áp hơn bao nhiêu. Người có lòng nhân ái là những người luôn sẵn sàng đồng cảm, chia sẻ, thấu hiểu và giúp đỡ người khác khi người ta gặp khó khăn. Họ cũng là những người luôn yêu thương mọi người, sẵn sàng cho đi mà không mong nhận lại, không ích kỉ nhỏ nhen, tính toán thiệt hơn với người khác; sống chan hòa với mọi người xung quanh, luôn mang những điều tích cực đến cho mọi người và lan tỏa được những thông điệp, hành động tốt đẹp ra xã hội. Lòng nhân ái sẽ mang đến cho xã hội sự gắn kết chặt chẽ giữa người với người, từ đó tạo nên cơ sở nhân văn vững chắc để phát triển các giá trị sống, phẩm chất đạo đức cao đẹp.

Tuy nhiên, trong xã hội hiện nay vẫn còn có nhiều người sống ích kỉ, lạnh lùng vô cảm mặc kệ đồng loại, chỉ biết đến bản thân mình. Lại có những người tự tách biệt mình với xã hội,… những người này cần thay đổi quan điểm sống nếu muốn cuộc đời trở nên ý nghĩa hơn.

Là chủ nhân tương lai của đất nước, chúng ta cần biết yêu thương mọi người, sẵn sàng chia sẻ niềm vui, nỗi buồn với những người xung quanh cũng như giúp đỡ những mảnh đời khó khăn, bất hạnh để thấy cuộc đời thật đáng sống. Cuộc sống là do ta làm chủ, hãy trở thành một người chủ có lòng nhân ái, có trái tim nhân hậu, đong đầy yêu thương.

Lời hát của nhạc sĩ Trịnh Công Sơn đã từng một thời đi vào lòng người thật nhẹ nhàng: “Sống trong đời sống cần có một tấm lòng/ Để làm gì em biết không/ Để gió cuốn đi”… Lời hát ấy đánh động vào lòng trắc ẩn của chúng ta, khiến ta không khỏi suy nghĩ về lòng nhân ái.

“Nhân ái” là một từ Hán Việt, nếu đem chiết tự ra thì “nhân” là người và “ái” là yêu. Vậy “nhân ái” tức là tình yêu thương con người. Đó là thứ tình cảm chân thành, xuất phát từ chính trái tim dành cho nhau. Nó không bắt nguồn từ sự vị kỉ, hẹp hòi mà nó xuất phát từ lòng bao dung, vị tha trong sáng. Chẳng cần phải là những việc làm to tát, lớn lao, lòng nhân ái hiện diện xung quanh cuộc sống thường ngày xung quanh chúng ta.

Rộng hơn ra, lòng nhân ái giữa đồng bào với nhau còn là nền tảng cho sự đoàn kết, tạo nên sức mạnh giúp cả dân tộc trải qua biết bao cuộc chiến tranh, đưa đất nước ta hiên ngang tiến bước sánh vai với các cường quốc năm châu. Ngay từ thuở xa xưa, cha ông ta đã quan niệm: “Lá lành đùm lá rách”, “Thương người như thể thương thân”…, nghĩa là lòng nhân ái đã là truyền thống văn hóa ứng xử lâu đời của dân tộc ta, lẽ nào ta lại có thể đi ngược với truyền thống ấy?

Trong một xã hội mà chúng ta sống nương tựa vào nhau, nghề này tựa vào nghề kia mà tồn tại, thì lòng nhân ái không chỉ có khả năng giúp đỡ con người qua cơn khốn khó, mang đến cho họ suối nguồn của tình thương mà còn là thước đo để đánh giá phẩm chất, đạo đức một con người.

Tất nhiên, lòng nhân ái, yêu thương không phải bổn phận hay trách nhiệm, chúng ta không bị một pháp luật nào cưỡng chế phải yêu thương nhau mà hoàn toàn là tự nguyện, nó xuất phát từ cái tâm trong sáng không vụ lợi. Khi một người có cái tâm trong sáng, lòng nhân hậu và chan hòa thì trước hết họ trao đi yêu thương để mang lại cho mình niềm vui và hạnh phúc ngay trong chính cuộc sống âu lo và lắm bộn bề.

Trong thực tế cuộc sống ngày nay, vẫn còn không ít kẻ thờ ơ, dửng dưng trước người gặp hoạn nạn. Lối sống ích kỉ ấy rất cần phê phán. Lòng nhân ái không chỉ giới hạn trong nước ta mà là trên toàn thế giới, như thời kì các quốc gia cùng nhau đóng góp giúp đỡ Nhật Bản vượt qua động đất, sóng thần.

Tóm lại, lòng nhân ái là một phẩm chất tốt mà mỗi người cần phải có, dù pháp luật không ép buộc, nhưng lòng trắc ẩn của một con người sai khiến chúng ta yêu thương nhau.

Câu hát ru con ầu ơ quen thuộc một thuở thơ ấu nhắc chúng ta nhớ về truyền thống nhân văn cao đẹp của dân tộc – lòng nhân ái. Lòng nhân ái theo suốt dòng chảy lịch sử hào hùng, phát triển của đất nước và trở thành một phần quan trọng không thể thiếu trong mỗi cá nhân, trong cộng đồng con người.

Nhân ái là từ hán việt, nghe tưởng chừng như xa vời, mỹ lệ nhưng thực chất lại vô cùng gần gũi. “Nhân” có nghĩa là người; “ái”: là yêu thương, quan tâm, chăm sóc, quý mến. Lòng nhân ái chính là biểu trưng cho vẻ đẹp của tấm lòng yêu thương, đồng cảm, sẻ chia sâu sắc giữa con người với nhau. Lòng nhân ái là vẻ đẹp tâm hồn mỗi con người Việt Nam từ ngàn đời dựng xây.

Lòng nhân ái là một nghĩa cử cao đẹp, đem lại giá trị thiết thực cho cuộc sống nhân loại. Giữa dòng chảy bộn bề, vai trò của lòng nhân ái lại càng được khẳng định rõ nét.

Lòng nhân ái như một lực nam châm vô hình gắn kết mọi người lại với nhau. Con người thêm xích lại gần nhau, thêm yêu thương, đùm bọc nhau hơn. Theo suốt chiều dài của lịch sử dân tộc, lòng nhân ái kết tinh sức mạnh, tinh hoa cộng đồng, trở thành một nguồn sóng mạnh mẽ cuốn trôi mọi thế lực thù địch, ngoại xâm hung hãn. Lòng nhân ái tiềm ẩn trong trái tim, trong tâm hồn mỗi con người, là kim chỉ nam cho hành động của mọi người, để từ đó con người biết sống tốt hơn sống có ích hơn, và dần hoàn thiện mình hơn.

Không chỉ như vậy, Lòng nhân ái còn là tiền đề cấp thiết cho một xã hội phát triển. Bởi vì sao? Bời vì lòng nhân ái là yêu thương, là sẻ chia. Có lòng nhân ái, con người ta mới có thể cùng nhau san sẻ, đồng cảm, cùng nhau xoa dịu niềm đau, mất mát, đói nghèo; cùng nhau dựng xây đất nước, phát triển xã hội ngày càng văn minh giàu đẹp. Có lòng nhân ái, sức mạnh cộng đồng được lan tỏa, từ đó sẽ hạn chế được nhiều tiêu cực, bài trừ, gạt bỏ những cái xấu xa; tệ hại ra khỏi xã hội trong lành.

Vậy tại sao con người ta lại cần có lòng nhân ái? Lòng nhân ái mang đến cho con người những khoảng lặng bình yên đáng trân trọng. Lòng nhân ái giúp chúng ta vượt qua cạm bẫy của những tham lam; thống hận và đầy si mê mu muội của kiếp người. Lòng nhân ái cho ta biết yêu thương, biết mở lòng; biết bao dung; từ bi; nhạy cảm với thế giới vạn vật, dần từ đó sẽ hoàn thiện và phát triển con người mình.

Lòng nhân ái lan tỏa tình yêu thương từ mỗi cá nhân đến cộng đồng, thắp sáng lên những tình cảm nồng đượm, gắn kết. Mỗi chiếc lòng nhân ái nhân lên sẽ là cả một biển nhân ái bao la. Sống nhân ái là sống có ý nghĩa; sẽ lưu lại tiếng thơm cho ngàn đời, cho những thế hệ sau.

Hạnh phúc là khi yêu thương và được yêu thương. Chúng ta không khó để bắt gặp lòng nhân ái trong cuộc sống hiện nay. Có rất nhiều các chương trình truyền hình thực tế được tổ chức thường xuyên nhằm mục đích sẻ chia với nhân dân nghèo khổ tại khắp các vùng miền trên tổ quốc như: “Cặp lá yêu thương; Lục lạc vàng…” Hay cứ đến 31 tháng 12 hàng năm đài truyền hình Việt Nam lại long trọng tổ chức chương trình thường niên “Nối vòng tay lớn” nhằm gây quỹ; thu hút sự quan tâm cộng đồng và các nhà hảo tâm chung tay giúp đỡ những số phận cơ cực, bất hạnh trong xã hội. Lòng nhân ái được thể hiện rõ nét hơn trong suốt những năm tháng chiến đấu hào hùng dân tộc. Những trang sử vẻ vang nước nhà chắc không thể thiếu được những mốc son chói lọi cho những sự kiện: “Một nắm khi đói bằng một gói khi no; Hướng về miền Nam ruột thịt…”

Lòng nhân ái đẹp vô cùng đến như vậy thế nhưng trong cuộc sống hiện đại lại có không ít các biểu hiện tiêu cực, đi ngược lại với lý tưởng lòng nhân ái. Đó là những con người vị kỷ, lúc nào cũng chỉ biết nghĩ cho riêng mình; luôn đặt lợi ích của bản thân lên lợi ích cộng đồng thậm chí còn trà đạp lên lợi ích của người khác để đạt được tham vọng của chính mình. Những ngày qua trên mạng xã hội không khỏi bức xúc với đoạn video clip ghi lại về một nhóm sinh viên đang tập hát vang bài Tự hào tổ quốc thế nhưng lại dửng dưng, vô cảm nhìn cô gái ăn xin bên đường bị trấn lột tiền. Thật đau xót đến vô cùng.

“Sống trong đời sống cần có một tấm lòng? Để làm gì? Em có biết không? Để gió cuốn đi…” Lời câu hát cứ thế ngân nga, ngân nga làm sống dậy bao nỗi lòng mỗi con người Việt Nam yêu dấu. Lòng nhân ái là vĩnh cửu theo năm tháng và là ngọn lửa thắp sáng nên tâm hồn cao đẹp mỗi con người. Chúng ta hãy sống, sống thật cao đẹp, sống thật có ích và sống để yêu thương.

Người Việt Nam ta từ xa xưa đã có câu tục ngữ “Thương người như thể thương thân” hay “Lá lành đùm lá rách”, đó là những lời răn dạy của cha ông muốn nhắc nhở con cháu phải biết yêu thương lẫn nhau. Tương thân tương ái hay chính là lòng nhân ái là một trong những truyền thống tốt đẹp của dân tộc Việt Nam ta bao đời nay, lòng nhân ái là một trong những biểu hiện tình cảm tốt đẹp. Nó gắn kết con người gần với nhau hơn, tạo dựng những mối quan hệ xã hội bền vững.

Lòng nhân ái, thực ra không phải thứ tình cảm gì đó xa xỉ mà đó chính là những tình cảm được xuất phát từ trái tim một cách chân thành nhất. Lòng nhân ái là sự cho đi mà không cần so đo tính toán thiệt hơn, cũng không mong cầu sẽ được nhận lại, lòng nhân ái đơn giản là những hành động chia sẻ, giúp đỡ và cảm thông lẫn nhau. Lòng nhân ái là biểu hiện của một nhân cách và tâm hồn cao đẹp, đức hạnh của mỗi người, “nhân” là “người”, “ái” là “yêu thương”, “nhân ái” chính là tình yêu thương giữa những con người với nhau. Lòng nhân ái luôn có sẵn trong tâm hồn mỗi con người, có chăng là chúng ta đã đánh thức nó dậy hay chưa mà thôi, ai cũng có thể có lòng nhân ái và ai cũng có thể trao đi lòng nhân ái đó dành cho mọi người xung quanh. Không cần phải là những việc làm to tát, lòng nhân ái hiện diện xung quanh cuộc sống thường ngày của chúng ta.

Trong xã hội hiện nay, khi người với người có quá nhiều rào cản để bày tỏ tình cảm và trao đi yêu thương lẫn nhau thì lòng nhân ái chính là điều quan trọng và quý giá nhất để gắn kết cộng đồng. Đất nước ta còn đang trong quá trình phát triển, còn nhiều khó khăn chồng chất, gìn giữ và phát huy truyền thống nhân ái của dân tộc chính là củng cố sức mạnh cho khối đại đoàn kết dân tộc trước các thế lực thù địch bên ngoài.

Có người nói rằng, khi quay ngược trái tim mình lên, trái tim sẽ có hình ngọn lửa. Đó là ngọn lửa của tình yêu thương, của tình người ấm áp. Bạn hãy thử tưởng tượng, nếu một ngày nào đó ngọn lửa ấy sẽ không còn tồn tại trong mỗi con người chúng ta thì Trái Đất này sẽ ra sao? Trái Đất sẽ trở nên lạnh lẽo như câu nói “Nơi lạnh nhất không phải là Bắc Cực mà là nơi thiếu tình yêu thương”.

Câu nói này đã thể hiện rất rõ ràng lòng nhân ái cần có ở mỗi con người. Vậy lòng nhân ái là gì? Là sự quan tâm, yêu thương, chăm sóc, khoan dung vị tha hay những lời động viên, an ủi người khác khi họ gặp khó khăn (do bệnh tật, hoàn cảnh, làm ăn thua lỗ…). Tất cả những điều này đều xuất phát từ tận đáy lòng của mỗi người, từ sự chân thành của trái tim chứ không phải là lời nói suông. Ông cha ta có câu tục ngữ “Thương người như thể thương thân”, câu nói đó được biểu hiện qua những hành động rất đơn giản, chẳng hạn: ta giúp một người ăn xin có được bữa cơm, giúp một bà cụ hay một em nhỏ qua đường, tham gia chương trình “Nụ cười hồng”, những chương trình từ thiện… Những việc đó tuy nhỏ nhoi nhưng chính là hơi ấm xua tan cái giá lạnh của những trái tim băng giá, là nghị lực giúp con người đương đầu với mọi điều kiện khắc nghiệt của hoàn cảnh, để họ luôn được sống trong vòng tay yêu thương của mọi người xung quanh, để họ cảm nhận đầy đủ giá trị của cuộc sống và cảm thấy hạnh phúc với số phận của minh.

Lòng yêu thương, nhân ái là một đức tính tốt đẹp cần thiết đối với mỗi con người. Vì nó là một sợi dây liên kết vô hình, là một thứ keo đặc biệt gắn chặt tình người lại với nhau, tình bạn bè năm châu láng giềng cho dù bạn đang ở đâu, dù nơi đó có lạnh lẽo đến mức nào, nhưng bên cạnh bạn luôn có biết bao ngọn lửa sưởi ấm tinh thần giúp bạn vượt qua khó khăn.

Đã bao giờ bạn cảm thấy cô đơn và cần được sưởi ấm tâm hồn chưa? Có lẽ điều bạn cần không gì ngoài tình thương của bố, của mẹ, thầy cô và bạn bè… Hay như nhân vật Hê-len Ki-lơ, bà đã dùng tình yêu thương nhân loại, đồng cảm bản thân để giúp những người đồng cảnh ngộ mặc dù bà vừa câm vừa điếc để họ tiếp tục sống, học tập và lao động.

Nhưng trong thực tế chẳng có mấy ai hiểu được đạo lí đó. Còn rất nhiều con người thờ ơ, sống ích kỷ chỉ biết vì bản thân chứ chẳng hề muốn giúp đỡ người khác. Thật đáng chê trách!

Tóm lại, câu nói trên đã khẳng định yêu thương nhân ái là phẩm chất đạo đức tốt đẹp cần phát huy. Là một học sinh ta phải biết san sẻ, động viên, khích lệ bạn bè khi họ gặp khó khăn. Điều đó sẽ vun đắp cho chúng ta một cuộc sống tốt đẹp và tràn ngập hạnh phúc.

Trong cuộc sống, lòng nhân ái chính là sợi dây tình cảm thiêng liêng giữa người với người, là một trong những yếu tố để xây dựng xã hội văn minh, nhân văn. Lòng nhân ái được hiểu là lòng yêu thương của con người, không chỉ đối với những người xung quanh mà còn đối với cả động vật, thực vật… Biểu hiện của lòng nhân ái là thái độ, hành động thể hiện tình thương, sự đồng cảm, sẻ chia, đùm bọc, cưu mang của con người.

Minh chứng cho điều này, ta có thể kể đến những tấm gương nhân ái như các danh nhân văn hóa: Lê-nin, chủ tịch Hồ Chí Minh… những nhà văn của thế giới như: Sê-khốp, Nguyễn Du… và còn đó những con người của cuộc sống đời thường chan chứa lòng thương người cao cả. Lòng nhân ái sẽ mang đến cho xã hội sự gắn kết chặt chẽ giữa người với người, từ đó tạo nên cơ sở nhân văn vững chắc để phát triển các giá trị sống, phẩm chất đạo đức cao đẹp. Người có lòng nhân ái sẽ được mọi người xung quanh yêu quý, kính trọng và biết ơn. Ngược lại, những người giữ cho mình thái độ sống vô cảm, ích kỷ, thờ ơ sẽ bị xa lánh và cô lập.

Chính vì vậy, ngay từ bây giờ, chúng ta hãy tự rèn luyện đạo đức của bản thân, đề cao tinh thần tương thân tương ái, luôn sẵn sàng giúp đỡ người khác khi họ gặp khó khăn, đóng góp công sức nhỏ bé của mình vào để xây dựng một xã hội tiến bộ, văn minh.

Để gắn kết bản thân với xã hội, con người sống rất cần phải có tấm lòng nhân ái. Nhân ái giúp ta nâng cao giá trị của cá nhân mình, làm cho mối quan hệ giữa con người với con người càng trở nên tốt đẹp. Cuộc sống trở nên khó khăn hơn khi chúng ta sống vì người khác, nhưng nó cũng trở nên đẹp đẽ và hạnh phúc hơn.

Lòng nhân ái là lòng yêu thương con người, biết đồng cảm, xót xa trước những khổ đau bất hạnh của người khác; biết trân trọng, đề cao những phẩm giá tốt đẹp, cái cao cả, thiên lương trong mỗi con người, căm ghét những thế lực tàn bạo chà đạp lên quyền sống, quyền hạnh phúc của người khác.

Lòng nhân ái là một trong những tiêu chí, là thước đo để đánh giá đạo đức, nhân cách của con người. Thật vậy, từ xưa đến nay, tiền tài, danh vọng, địa vị, tài năng, học thức, không phải là những yếu tố quan trọng làm nên giá trị con người mà chính lòng yêu thương con người. Chính nếp sống đạo đức cao đẹp, biết hi sinh bản thân mình vì người khác mới là nhân tố quyết định, góp phần làm tôn lên giá trị của mỗi người chúng ta. Nguyễn Trãi, Nguyễn Du, Hồ Chí Minh, Lý Bạch, Đỗ Phủ, Lep-tônxtôi, Maxime Gorki, Puskin đều trở nên vĩ đại là vì từ trong cuộc đời và tác phẩm của họ đều toát lên một tấm lòng yêu thương con người bao la rộng lớn.

Sống yêu thương, quan tâm giúp đỡ người khác là một lối sống đẹp, được mọi người yêu quý kính trọng, khi gặp khó khăn sẽ được mọi người cưu mang giúp đỡ. Ngược lại sống ích kỷ chỉ lo nghĩ cho bản thân mình, dửng dưng trước những khổ đau, bất hạnh của người khác chỉ khiến cho mình trở nên tầm thường nhỏ bé, bị mọi người coi thường xa lánh, nào có ích lợi gì.

Yêu thương con người, biết hy sinh quyền lợi của cá nhân mình vì người khác sẽ làm cho tâm hồn ta trở nên cao đẹp, thánh thiện. Và chính lòng yêu thương chân thành đó có sức cảm hóa vô cùng to lớn, nó giúp cho những con người lầm đường lạc lối trở về với cuộc sống hiền lành, lương thiện.

Lòng nhân ái là một truyền thống đạo lí tốt đẹp của dân tộc, cần được giữ gìn và phát huy. Mỗi người chúng ta hãy biết sống sẻ chia, mở rộng lòng mình ra để cứu giúp những con người nghèo khổ bất hạnh, để nâng cao giá trị đời sống của chính mình và làm cho cuộc đời trở nên tốt đẹp hơn.

Cuộc sống chỉ thực sự có ý nghĩa khi nó được tưới mát bằng dòng nước của lòng nhân ái. Hãy yêu thương con người và làm cho lối sống cao đẹp ấy lan tỏa rộng rãi trong cộng đồng. Hãy đề cao tình yêu thương và yêu thương đúng cách. Có như vậy, chúng ta mới tìm thấy được hạnh phúc đích thực ngay trong cuộc sống này.

“Sống trong đời sống cần có một tấm lòng, để làm gì em biết không, để gió cuốn đi, để gió cuốn đi…”. Đó là một lời ca rất hay trong bài hát của cố nhạc sĩ Trịnh Công Sơn. Vậy có ai đã từng thắc mắc rằng tấm lòng cố nhạc sĩ muốn nói đến ở đây là gì không? Có lẽ mỗi người đều tự có cho mình những đáp án riêng, nhưng đối với tôi câu trả lời trọn vẹn nhất là tấm lòng nhân ái. Trong truyền thống dân tộc từ ngàn đời nay, qua biết bao đổi thay, biến cố của đất nước và con người, thế nhưng trong nền giáo dục, lòng nhân ái vẫn luôn được đề cao và nhấn mạnh, được xem là một trong những giá trị cốt lõi hình thành nên phẩm cách của một con người. Muốn trở thành một con người chân chính, cái đầu tiên người ta phải có không phải là một thân thể cường tráng, một khối óc thông minh, mà cốt nhất là phải có tình thương, có lòng nhân đạo, để phân biệt rạch ròi với tất cả những loài khác.

Vậy lòng nhân ái có thể được định nghĩa như thế nào? Từ “nhân ái” là một từ ghép Hán Việt, nếu phân tích từng chữ thì “nhân” tức là để chỉ con người, “ái” tức là tình yêu thương, như vậy tổng hợp lại “nhân ái” tức là tình yêu thương con người. Mở rộng ra đó tức là những tình cảm trân quý, tôn trọng, thấu hiểu, đồng cảm, sẻ chia giữa con người với nhau, sống trong một xã hội con người phải biết yêu thương, đùm bọc và giúp đỡ lẫn nhau, không chỉ đối với người thân mà là đối với tất cả các cá thể khác. Nhân ái tức là khi ta thấy đồng loại đau đớn, chịu kiếp bất hạnh, bế tắc thì lòng ta cũng xót xa, thương cảm, nhân ái tức là thấu hiểu được vẻ đẹp tâm hồn, nhân cách của những con người khác nhau, nhân ái tức là biết đồng cảm, sẻ chia đối với những con người phải chịu mất mát, mong muốn họ có một cuộc đời tốt hơn, đồng thời biết đấu tranh để đòi lại sự công bằng bình đẳng cho tất cả mọi người trên thế giới, không phân biệt sắc màu, chủng tộc, quốc gia, tôn giáo, già trẻ, nam nữ. Chung quy lại, người có tấm lòng nhân ái tức là người có lòng yêu thương đồng loại, sống đạo đức, biết cho đi, là một trong những thước đo đánh giá nhân cách quan trọng nhất đối với từng cá thể trong xã hội.

Như vậy tại sao chúng ta sống trên đời lại cần phải có lòng nhân ái, cư xử nhân đạo với nhau? Bởi lẽ, con người là những có thể có suy nghĩ, có tâm tư, tình cảm, mỗi cá nhân ai cũng đều có một trái tim và khao khát nhận được tình yêu thương, sự chăm sóc đùm bọc. Mà nếu như thiếu đi những xúc cảm ấy, họ sẽ trở nên buồn bã, chán nản, cảm thấy cô độc, trơ trọi trên cuộc đời, xã hội cũng vì thế mà thiếu đi sự liên kết chặt chẽ với nhau. Cũng giống như việc một gia đình cùng chung sống, nhưng các thành viên không hề yêu thương, chăm sóc nhau, không khí bao trùm luôn lạnh lẽo, vắng vẻ, kết quả là sự tan đàn xẻ nghé đáng tiếc. Đặc biệt các cá nhân sẽ khó có thể chống chọi và vượt qua những khó khăn gặp phải trong cuộc sống như bệnh tật, đói nghèo, hay những thất bại xảy đến… Tuy nhiên khi có sự yêu thương đùm bọc từ những người xung quanh, “một con ngựa đau cả tàu bỏ cỏ” thì cá nhân này sẽ nhanh chóng lấy lại được cân bằng, những tổn thương sẽ nhanh chóng được liều thuốc “nhân ái” làm lành sẹo, họ lại có thể tiếp tục cuộc sống, phấn đấu xây dựng xã hội ngày một tốt đẹp hơn. Đặc biệt như đã nói, xã hội không thể chỉ có các mối liên hệ kinh tế, chính trị, văn hóa… mà quan trọng để duy trì được một trật tự xã hội cân bằng, thì yếu tố tình cảm, lòng nhân ái giữa con người với con người vô cùng quan trọng. Sự yêu thương, giúp đỡ lẫn nhau giữa các cá thể sẽ đem đến một xã hội yên bình, vui vẻ và lạc quan, hiệu suất công việc, lao động được cải thiện, nền kinh tế, chính trị, văn hóa từ đó cũng trở nên ổn định và phát triển mạnh mẽ. Có thể lấy một số ví dụ như việc chúng ta thường hay tổ chức các hoạt động nhân ái, quyên góp cho nạn nhân chất độc màu da cam, những đồng bào bị thiên tai bão lũ, hay những người nghèo có cuộc sống khó khăn… Hành động này có tính lan tỏa yêu thương mạnh mẽ, khiến những số phận bất hạnh cảm thấy bản thân mình không cô đơn, không bị bỏ lại, từ đó họ càng có động lực để cố gắng vượt qua những khó khăn trước mắt. Đồng thời, những hành động nhân ái còn có ý nghĩa giáo dục to lớn đối với các thế hệ trẻ, góp phần hình thành một nét đẹp một truyền thống quý giá luôn tuôn chảy trong huyết quản của nhiều thế hệ. Bên cạnh đó hành động nhân ái, sẻ chia, quyên góp cũng góp phần làm giảm gánh nặng cho xã hội và nhà nước, góp phần củng cố xây dựng một bộ máy chính trị vững mạnh, tiến bước sánh ngang cùng các cường quốc năm châu. Trong hai cuộc kháng chiến chống giặc ngoại xâm cách đây năm mươi năm của dân tộc ta, có thể nói rằng gốc rễ của những chiến thắng vang dội không chỉ nằm ở tinh thần yêu nước, lòng tự tôn dân tộc sâu sắc, ý chí quyết tâm chống giặc mà nó còn nằm ở chính tấm lòng nhân ái hiện diện trong mỗi con người. Có biết bao thế hệ cha anh đã ra đi, chấp nhận hy sinh xương máu bởi một nỗi đau xót khi chứng kiến cảnh quê hương điêu tàn, đồng bào bị giết hại, tiêu biểu nhất trong số cách anh hùng, lãnh tụ vĩ đại đó phải kể đến Chủ tịch Hồ Chí Minh với tấm lòng nhân ái sáng ngời soi bước đường của dân tộc. Rồi cũng từ lòng nhân ái mà hình thành nên sức mạnh đại đoàn kết dân tộc, trong kháng chiến chống Mỹ, Bắc – Nam chia cắt, nhân dân miền Bắc thương miền Nam ngập tràn khói lửa chiến tranh, nên đã ra sức tăng gia lao động sản xuất, cung ứng cho miền Nam, với một niềm tin rồi ai đây Bắc – Nam sum họp một nhà. Phải nói rằng sức mạnh của lòng nhân ái, nhân đạo là một nguồn động lực vô cùng to lớn, có thể đánh tan hết mọi trở ngại, trở thành một trong những nền tảng cốt lõi nhất của một dân tộc hùng mạnh.

Tuy nhiên có một sự thật đáng buồn rằng xã hội càng hiện đại, con người càng có nhiều cơ hội phát triển, càng trở nên độc lập, không còn quá phụ thuộc vào cộng đồng hay gia đình như trong lịch sử nhân loại, thì lòng nhân ái dường như cũng trở nên phai nhạt trong trái tim của nhiều cá thể. Người ta bắt đầu trở nên thờ ơ với nỗi đau của đồng loại, thay vào đó là chăm chú, tập trung một cách ích kỷ vào cuộc sống của mình, các mối quan hệ giữa con người với con người trong xã hội ngày càng trở nên lỏng lẻo, thậm chí cả ở trong gia đình cũng dần hình thành xu hướng các cá thể sống độc lập và ít can thiệp vào cuộc sống của nhau. Thật đáng tiếc đó lại là một biểu hiện của sự đi xuống trong phẩm cách và nền văn hóa của dân tộc, khi mà thanh niên trai trẻ lại thờ ơ không muốn nhường ghế cho phụ nữ mang thai, người già trên phương tiện công cộng.

Người ta vội vàng bỏ đi khi chứng kiến một vụ tai nạn giao thông nghiêm trọng vì sợ gặp phải phiền phức, hoặc người ta sẵn sàng lừa lọc lẫn nhau để chuộc lợi cho bản thân mà không hề quan tâm xem kẻ bị lừa sẽ đau khổ và tuyệt vọng đến nhường nào. Hoặc việc những người cha người mẹ ra tay đánh đập, hành hạ con mình một cách tàn ác, hay cả những đứa con sẵn sàng bỏ đói, đối xử với các đấng sinh thành như súc vật. Rồi cả việc người ta chẳng mảy may quan tâm gì đến những việc thiện nguyện, coi đó là hành động dở hơi, rỗi việc, thậm chí có cả những kẻ lợi dụng danh nghĩa tình nguyện để chuộc lợi, kiếm ăn trên chính nỗi đau của đồng loại. Tuy rằng những hiện tượng kể trên chỉ xảy ra ở trên một số những cá nhân, thế nhưng con sâu làm rầu nồi canh, bởi nó đã đem đến những hình ảnh tiêu cực trong xã hội, khiến người ta không khỏi lắc đầu ngao ngán. Còn đâu truyền thống văn hóa mà ông cha ta đã cố gắng xây dựng giữ gìn suốt mấy ngàn năm văn hiến.

Hai câu thơ của nhà thơ Tố Hữu như muốn nhắc nhở chúng ta rằng: cần có lòng yêu thương để cuộc sống này tốt đẹp hơn. Lòng nhân ái, yêu thương lẫn nhau là một tình cảm tốt đẹp, một truyền thống ngàn đời của dân tộc ta từ xưa đến nay. Lòng nhân ái không phải cái gì cao xa, trừu tượng hay khó hiểu mà chính là cách chúng ta đối xử với nhau hằng ngày.

Advertisement

Trước tiên, chúng ta cần hiểu: Nhân ái là gì? Nhân nghĩa là người, còn ái nghĩa là yêu. Nhân ái chính là tình yêu thương giữa người với người. Lòng nhân ái có thể chỉ biểu hiện qua một lời nói ấm áp dành cho nhau, một cái ôm thật chặt khi yếu đuối, một cử chỉ cao đẹp lúc cuộc sống lâm vào khó khăn. Tình cảm ấy xuất phát từ trái tim chân thành của mỗi người, không cưỡng cầu, ép buộc. Bởi khi trao đi yêu thương, thứ chúng ta nhận được chính là tình yêu thương và sự thanh thản từ trong tâm hồn.

Con Người là hai tiếng kì diệu được viết hoa. Chúng ta khác với động vật ở chỗ chúng ta không sinh tồn bằng bản năng, chúng ta có ý thức, có cảm xúc. Và điều khác biệt lớn nhất đó là chúng ta biết yêu thương, chia sẻ, giúp đỡ, đùm bọc lẫn nhau. Lòng nhân ái có thể dễ dàng nhận ra trong cuộc sống hàng ngày. Trước hết, đó chính là những tình cảm gần gũi giữa những người thân thiết, ruột thịt với nhau: tình mẫu tử, tình anh em, tình bà cháu… Rộng hơn gia đình đó là xã hội. Dân tộc Việt Nam vốn có truyền thống yêu thương, đoàn kết, lá lành đùm lá rách. Những người khuyết tật, người nhiễm chất độc màu da cam vốn chịu nhiều thiệt thòi trong cuộc sống. Thấu hiểu hoàn cảnh của họ, chúng ta đã lập ra những quỹ vì người khuyết tật, vì nạn nhân chất độc màu da cam nhằm giúp cuộc sống của họ phần nào bớt khó khăn. “Một con ngựa đau cả tàu bỏ cỏ”.

Cứ mỗi mùa mưa bão, khi nghe tin nhân dân miền Trung đang phải gánh chịu những hậu quả nặng nề, lòng mỗi người con Việt Nam lại quặn thắt xót xa. Và khi ấy, tình đồng bào lại mạnh mẽ, thắm thiết hơn bao giờ hết. Mỗi người, không phân biệt giàu sang, nghèo hèn đều góp chút của cải, công sức để giúp miền Trung vượt qua khó khăn. Bác Hồ – vị Cha già của chúng ta là người có tấm lòng nhân ái vĩ đại. Bác đã hi sinh cả cuộc đời, hạnh phúc cá nhân vì sự độc lập của dân tộc, cuộc sống ấm no, hạnh phúc của nhân dân. Hay mẹ Teresa – một nhân vật nổi tiếng toàn cầu với các hoạt động nhân đạo cứu giúp người nghèo và những người sống trong cảnh tuyệt vọng. Sự cống hiến lớn lao và không mệt mỏi của bà đã thay đổi cuộc đời nhiều người và giúp họ có niềm tin vào cuộc sống.

Trong bức thư Einstein gửi con gái, ông cho rằng tình yêu là thứ lực vô hình nhưng mạnh mẽ nhất. Quả thật như vậy, tình yêu thương, lòng nhân ái là sợi dây gắn kết trái tim con người, giúp ta cảm nhận được sự ấm áp, quan tâm sẻ chia. Được che chở bởi lòng nhân ái, ta có thể đối mặt và vượt qua những thử thách khắc nghiệt nhất của cuộc sống. Lòng nhân ái cũng là yếu tố cốt lõi để tạo nên một cuộc sống hạnh phúc, một xã hội phát triển.

Bên cạnh đó, chúng ta cũng cần lên án, phê phán nghiêm khắc những người sống thờ ơ, vô cảm, thiếu tình yêu thương ngay với chính đồng loại mình. Họ là những con robot lạnh lùng, và sẽ sớm mang bệnh án trái tim rạn vỡ đến hết đời.

Mỗi chúng ta hoàn toàn có thể lan tỏa lòng nhân ái bằng những việc làm rất nhỏ hằng ngày. Đó có thể chỉ là một cử chỉ ân cần, sự quan tâm đối với những mảnh đời bất hạnh trong cuộc sống hàng ngày. Bằng cách đó, chúng ta đang góp sức mình để làm cho xã hội tốt đẹp hơn.

“Sống trong đời sống, cần có một tấm lòng”. Hãy để gió thổi đi lòng nhân ái xuất phát từ trái tim, và bạn sẽ thấy cuộc sống này chẳng còn khổ đau hay oán hận gì nữa.

Tôi đã từng đọc được một câu chuyện có tên “Người ăn xin” và muốn được trích dẫn để các bạn cùng đọc:

Người ăn xin

Hình ảnh ông lão lấy tay nắm chặt lấy tay người thanh niên làm tôi day dứt mãi, bất chợt tôi nghĩ đến lòng nhân ái trong cuộc sống ngày hôm nay…

Lòng nhân ái tưởng chừng như là điều đơn giản và luôn thường trực trong mỗi chúng ta. Nhưng ta đâu biết, cuộc sống ngày càng phát triển, con người đã dần quên mất bản chất thật sự của lòng nhân ái là gì. Theo từ điển, lòng nhân ái chính là vẻ đẹp về nhân cách và tâm hồn của mỗi con người, nó có thể gắn bó, kết nối đưa mọi người đến gần nhau hơn. Lòng nhân ái còn là tình cảm xuất phát từ trái tim, là cho đi không cần nhận lại. Hay đơn giản chỉ là sự thấu hiểu, cảm thông và hành động chia sẻ. Cũng giống như hành động của cậu bé trong câu chuyện Người ăn xin, cậu chẳng có gì cho ông lão, chỉ biết đưa tay nắm lấy đôi bàn tay run rẩy vì lạnh của ông. Nhưng cậu đâu biết cậu vừa trao đi một thứ tình cảm rất đặc biệt, đó là sự cảm thông chân thành nhất xuất phát từ trái tim, chính tấm lòng nhân ái của hơi ấm tim cậu bé đã truyền qua tim ông lão làm ông rơi nước mắt. Giọt nước mắt của hạnh phúc, của sự biết ơn. Cả ông lão và cậu bé đều đã cho đi và nhận lại một giá trị vô cùng thiêng liêng đến từ chính cảm xúc của họ. Và lòng nhân ái đôi khi chỉ đơn giản là như thế…sự sẻ chia, thấu hiểu.

Xã hội ngày càng phát triển, con người dần bị cuốn vào vòng xoáy tiền bạc, kinh tế, suốt ngày bận rộn. Họ mải chạy theo dòng chảy cuộc sống mà quên đi những giá trị bên cạnh, quên mất cách thể hiện tình yêu thương với những người xung quanh, thậm chí là với ngay chính người thân của họ. Nhưng ta đâu biết rằng càng như thế giữa người với người càng cần có sợi dây tình nghĩa buộc chặt lại với nhau. Chẳng phải vô cớ mà người xưa có câu “tình làng nghĩa xóm”. Con người ở cạnh nhau được là bởi có sự thấu hiểu, chia sẻ. Thử hình dung nếu hai người yêu nhau mà không có sự thấu hiểu, không chịu cảm thông cho nhau, không có sự xuất phát tình cảm từ trái tim chân thành thì sẽ như thế nào? Hoặc giữa ba mẹ và con cái, nếu không có sự bao dung, lời an ủi, chia sẻ, động viên thì tình mẫu tử có thật sự được gọi là bền chặt? Chúng ta cứ nghĩ rằng thương người chính là quăng cho họ một đống tiền và để đó.

Bạn thấy một người ăn xin bên đường bạn sẽ làm gì? Sẽ cúi xuống hoặc thậm chí là đứng đó tiện tay “ném” vào chiếc rổ của họ vào đồng tiền lẻ và thản nhiên gọi đó là tình thương. Bạn có nghĩ họ cần điều đó? Tôi còn nhớ đã được đọc đâu đó một câu chuyện về một cô bé mồ côi đi bán vé số dạo, có một bác lớn tuổi đến và mua vé số nhưng không nhận tiền thừa, cô bé cương quyết gửi trả lại và nói rằng chỉ nhận số tiền bằng giá trị tờ vé số bán ra. Thực chất ta luôn quy chụp điều bản thân cần cho người khác mà quên mất điều họ cần chỉ đơn giản là cái ôm thật ấm áp, cái nắm tay truyền cho nhau hơi ấm của tình yêu. Thời hiện đại, mọi thứ đều quy ra tiền, con cái nghĩ ba mẹ già rồi, chỉ cần thuê người chăm sóc, cho học vào viện dưỡng lão hay hàng tháng gửi tiền về là đã làm tròn chữ hiếu, là thể hiện tình yêu đối với đấng sinh thành. Nhưng đã bao giờ họ chịu hỏi điều ba mẹ muốn? Người già họ cần nhất là không khí gia đình, con cháu sum vầy, tiền tài, vật chất có ích gì khi đứa con của mình không hề muốn quan tâm đến ba mẹ của nó. Ta cứ mãi đem đến của cải mà quên mất cái quan trọng nhất là tình yêu thương – vốn thường trực trong tâm hồn mỗi người dần bị sự vô cảm lấy đi mất. Tôi tự hỏi lòng nhân ái của con người bây giờ đang ở nơi đâu?

Bạn đừng nghĩ lòng nhân ái là điều gì to lớn. Có những hành động đơn giản vô cùng nhưng chỉ cần xuất phát từ trái tim của bạn, đem lại niềm vui, hạnh phúc cho người khác, ấy chính là bạn đã trao đi lòng nhân ái. Đó có thể là một cành hoa hồng nhỏ tặng cho cô lao công nhân ngày Quốc tế phụ nữ; đó chỉ là một lần tình cờ bạn dìu một cụ già sang đường, cụ nhìn bạn mỉm cười cảm ơn; đó là một lần bạn nói lời cảm ơn với những người giúp đỡ bạn, nói xin lỗi khi bạn sai; hay chỉ là một cái ôm ba mẹ thật chặt mỗi khi đi xa trở về nhà… Tất cả những điều đó vô cùng đơn giản đúng không? Vậy lòng nhân ái vốn dĩ vô cùng dễ cho đi và nhận lại. Chẳng qua ta cố tình lảng tránh, tìm cách ngụy biện cho mình, dần dần thành một thói quen xấu, ta quên mất đối xử với nhau luôn cần có trái tim chân thành.

Tôi thừa nhận bản thân đã có đôi lúc vô tâm, nhưng qua câu chuyện “Người ăn xin” dường như tôi đã nhận được rất nhiều, tôi đã học được bài học về lòng nhân ái. Mỗi ngày trôi qua hãy dùng trái tim của mình, yêu thương của mình lan tỏa giá trị của tình thương khắp moi nơi. Tôi sẽ nhớ mãi hình ảnh ông lão nắm chặt tay cậu bé và nói: “Cảm ơn cháu! Như vậy là cháu đã cho lão rồi!”

Thật ra lòng nhân ái và tình yêu thương không ai định nghĩa được, nhưng chúng ta vẫn có thể hiểu rằng chia sẻ, thấu hiểu, cảm thông chính là những điều làm nên sự ấm áp trong mối quan hệ giữa người với người. Hãy sống, hãy cho đi, hãy nhân rộng tình yêu thương để thế giới này ngập tràn những bông hoa của tình thương…

….

Văn Mẫu Lớp 12: Đoạn Văn Nghị Luận Về Ý Chí Và Nghị Lực (Dàn Ý + 17 Mẫu) Viết Đoạn Văn Về Ý Chí Nghị Lực

Viết đoạn văn về ý chí nghị lực siêu hay

Dàn ý viết đoạn văn về ý chí, nghị lực

Đoạn văn về ý chí nghị lực

Viết đoạn văn về ý chí nghị lực

Viết một đoạn văn ngắn về ý chí, nghị lực 

Viết đoạn văn về ý chí nghị lực

Đoạn văn về ý chí và nghị lực 

Viết đoạn văn 200 chữ về nghị lực sống

Dàn ý viết đoạn văn về ý chí, nghị lực

1. Mở đoạn

Giới thiệu vấn đề cần nghị luận: ý chí, nghị lực sống của con người. (Một trong những đức tính quý báu của con người mà ai cũng cần rèn luyện chính là ý chí, nghị lực).

2. Thân đoạn

a. Giải thích

Ý chí, nghị lực sống của con người trì là sự nhẫn nại, cố gắng, quyết tâm vươn lên, theo đuổi mục tiêu của mình cho dù gặp nhiều khó khăn, trở ngại và vấp ngã.

b. Phân tích

Tất cả mọi việc trên đời này không phải dễ dàng mà thành công được, để đạt được thành công, chúng ta phải cần có ý chí theo đuổi mục tiêu. Có thể nói, ý chí, nghị lực chính là một trong những yếu tố quan trọng nhất quyết định đến thành công của con người.

Nếu trong xã hội con người ai khi gặp khó khăn cũng bỏ cuộc thì xã hội sẽ không phát triển được như hiện nay, con người sẽ rơi vào bế tắc.

Người có ý chí, nghị lực luôn là tấm gương sáng để chúng ta học tập và noi theo, giúp xã hội này tiến bộ hơn.

c. Chứng minh

Học sinh tự lấy dẫn chứng để minh họa cho bài làm văn của mình.

3. Kết đoạn

Khái quát và khẳng định lại tầm quan trọng của ý chí, nghị lực sống của con người đồng thời rút ra bài học, liên hệ bản thân.

Đoạn văn về ý chí nghị lực Viết đoạn văn về ý chí nghị lực

Cuộc sống của chúng ta luôn là một chuỗi khó khăn và thử thách. Nếu có ý chí nghị lực chắc chắn chúng ta sẽ vượt qua để vươn tới thành công. Như vậy trong cuộc sống, ý chí nghị lực đóng vai trò quan trọng đưa ta đến với thành công. Trước hết ta cần hiểu “ý chí” là gì? Ý chí là sự dũng cảm, là nghị lực phi thường, là bản lĩnh của con người vượt qua mọi khó khăn và thử thách để vươn tới thành công. Khi con người có ý chí thì dù gặp phải những khó khăn, thử thách nào trên con đường mình đã chọn thì chúng ta vẫn mạnh mẽ đứng lên, vượt qua và đi tiếp. Ý chí nghị lực tạo cho ta bản lĩnh và lòng dũng cảm. Người có ý chí và nghị lực là người luôn đương đầu với mọi khó khăn thử thách, là người dám nghĩ, dám làm, dám sống. Ý chí, nghị lực giúp chúng ta khắc phục những khó khăn và thử thách, rèn cho ta niềm tin và thúc đẩy chúng ta luôn hướng về phía trước, vững tin vào tương lai. Đúng như người phương tây từng nói “hãy hướng về ánh sáng, mọi bóng tối sẽ ngả sau lưng bạn”. Bên cạnh đó ý chí nghị lực giúp con người ta luôn tự tin về bản thân, tự tin với công việc mình làm. Ngày nay, xã hội càng phát triển, nhiều cơ hội được mở ra nhưng ta vẫn thấy có những biểu hiện trái ngược. Bên cạnh những con người thành công, ta thấy rất nhiều bạn trẻ bây giờ thấy khó khăn thì nản chí; thấy thất bại thì vội vã bỏ cuộc, sống thiếu niềm tin, thiếu ý chí, sống hèn nhát và gục ngã,… những người này đáng bị xã hội chỉ trích, phê phán. Mỗi chúng ta cần rèn luyện cho mình ý chí và nghị lực; phê phán những kẻ yếu đuối, thiếu tự tin, học tập những tấm gương về ý chí và nghị lực. Mỗi chúng ta ai cũng hiểu được vai trò, tầm quan trọng của ý chí đối với cuộc sống, chính vì thế, chúng ta cần rèn luyện cho bản thân mình một ý chí bền bỉ, sẵn sàng đối mặt với mọi khó khăn, thử thách.

Viết một đoạn văn ngắn về ý chí, nghị lực

Trong cuộc sống của chúng ta, có biết bao khó khăn mà ta cần phải vượt qua. Nhưng để có thể vượt qua được những khó khăn đó đòi hỏi chúng ta phải có một ý chí hơn người. Ý chí chính là sự dũng cảm, là nghị lực phi thường, là bản lĩnh của con người vượt qua mọi khó khăn và thử thách để vươn tới thành công. Biểu hiện của ý chí đó là những tấm gương dám sống, dám thành công. Ý chí nghị lực tạo cho ta bản lĩnh và lòng dũng cảm. Người có ý chí và nghị lực là người luôn đương đầu với mọi khó khăn thử thách, là người dám nghĩ, dám làm, dám sống. Thứ hai, ý chí nghị lực giúp chúng ta khắc phục những khó khăn và thử thách, rèn cho ta niềm tin và thúc đẩy chúng ta luôn hướng về phía trước, vững tin vào tương lai. Bên cạnh đó, ý chí nghị lực giúp con người ta luôn tự tin về bản thân, tự tin với công việc mình làm. Dù thất bại vẫn vui vẻ và khắc phục lại chứ không hề nản chí. Ngày nay, xã hội càng phát triển, nhiều cơ hội được mở ra nhưng ta vẫn thấy có những biểu hiện trái ngược. Bên cạnh những con người thành công, ta thấy rất nhiều bạn trẻ bây giờ thấy khó khăn thì nản chí. Thấy thất bại thì hủy hoại chính mình. Sống thiếu niềm tin, thiếu ý chí, sống hèn nhát và gục ngã. Đây là vấn đề cần lên án. Ý chí, nghị lực là thước đo phẩm giá của con người. Mỗi chúng ta hãy rèn luyện để có ý chí và nghị lực sống. Sống không hèn nhát và yếu đuối. Muốn vậy ngay từ bây giờ bạn hãy là chính bạn với những ước mơ và khát vọng và rèn luyện để vươn tới thành công.

Viết đoạn văn về ý chí nghị lực Đoạn văn mẫu 1 Đoạn văn mẫu 2

Có bao giờ bạn tự hỏi vì sao trong cuộc sống có người thành công, còn có người luôn thất bại? Sự thành công và thất bại có thể cần nhiều yếu tố, tuy nhiên sự khác biệt lớn nhất của người thành công và kẻ thất bại là ở ý chí của người đó. Ý chí là lòng kiên trì, nhẫn nại, bản lĩnh của con người khi theo đuổi mục tiêu của mình đề ra, cố gắng thực hiện lí tưởng dù gặp phải nhiều khó khăn, thử thách. Ý chí giúp con người mạnh mẽ hơn, dũng cảm hơn, trưởng thành hơn trên con đường hoàn thiện bản thân cũng như đạt tới thành công. Cuộc sống luôn tồn tại những khó khăn thử thách mà chúng ta không thể lường trước được có thể xảy đến bất cứ lúc nào. Ý chí kiên cường sẽ giúp chúng ta đối mặt với những khó khăn đó mà không hề lo sợ, khi bước qua được khó khăn đó, ta sẽ có thêm nhiều bài học quý giá để hoàn thiện bản thân cũng như đúc rút được những kinh nghiệm mà người khác khó có được và không có bất cứ sách vở nào dạy ta. Ý chí không chỉ đưa ta đến thành công mà còn giúp ta rèn luyện nhiều đức tính tốt đẹp khác như: kiên trì, dũng cảm, bản lĩnh, mạnh mẽ,… Tất cả đều là những yếu tố hoàn hảo để ta hoàn thiện bản thân mình hơn. Tuy nhiên, trong cuộc sống vẫn còn có những người sống không có ý chí, nghị lực, mới gặp chút khó khăn đã vội nản chí, bỏ cuộc. Lại có những người sống dựa dẫm vào người khác, không biết cố gắng cho cuộc sống của chính mình,… Những người này cần bị phê phán và thay đổi bản thân nếu muốn tìm được những giá trị tốt đẹp của cuộc sống. Là một người học sinh chủ nhân tương lai của đất nước, chúng ta cần phải có ý thức vươn lên, rèn luyện cho bản thân mình một ý chí mạnh mẽ, sẵn sàng đương đầu với những khó khăn, thử thách. Mỗi ngày rèn luyện bản thân một chút ta sẽ thấy được nhiều ý nghĩa tốt đẹp của cuộc sống hơn.

Đoạn văn mẫu 3

Nhạc sĩ Trần Lập có viết : “Chặng đường nào trải bước trên hoa hồng, bàn chân cũng thấm đau vì mũi gai, đường vinh quang đi qua muôn ngàn sóng gió ”. Vâng, để có được thành công thì con người phải có nghị lực sống. Nghị lực là ý chí, là quyết tâm vượt qua mọi khó khăn, thử thách để đạt được những mục tiêu có ích. Người có nghị lực sống sẽ gặt hái được nhiều thành công; tìm được niềm vui, ý nghĩa trong cuộc sống; sẽ được mọi người tin yêu, kính trọng. Xã hội có nhiều người như thế sẽ góp phần xây dựng đất nước ngày càng văn minh, tiến bộ. Trong cuộc sống, có rất nhiều người có ý chí chẳng hạn như Cao Bá Quát khi đi học có chữ viết được ví như  rồng bay phượng múa” nhưng nhờ sự kiên nhẫn, một thời gian sau, từ viết chữ xấu Cao Bá Quát đã nổi tiếng khắp vùng về biệt tài viết chữ đẹp; hay thầy giáo Nguyễn Ngọc Ký từ khi sinh ra đã bị liệt cả hai tay nhưng nhờ có lòng quyết tâm ông đã sử dụng đôi chân miệt mài tập viết, nhờ có vậy mà giờ đây Nguyễn Ngọc Ký đã trở thành giảng viên của một trường đại học nổi tiếng, đó là những tấm gương sáng đáng được ngưỡng mộ và tuyên dương. Tuy nhiên bên cạnh đó vẫn có một số kẻ hèn hạ, nhút nhát “mới thấy sóng cả đã ngã đã ngã tay chèo”, đó là những suy nghĩ đáng bị chê trách. Như vậy, ý chí nghị lực là những là sức mạnh vô hạn tận giúp cho con người chiến thắng những giông tố để bước tới thành công. Vì vậy, là một người học sinh, là một chủ nhân tương lai của đất nước chính, ta cần phải có lòng quyết tâm với mọi việc dù khó hay dễ ngay từ khi còn ngồi trên ghế nhà trường.

Đoạn văn mẫu 4

Nếu nói bản lĩnh nghiêng về thực hành thì ý chí chính là phần lý thuyết. Muốn thực hành thì phải nắm vững lý thuyết mà áp dụng. Có ý chí, con người mới có đủ quyết tâm để chinh phục những tầm cao mới. Bản thân ý chí vốn không có một định nghĩa cụ thể. Nói đơn giản, đó là quyết tâm cố gắng vượt qua gian khổ thử thách; còn nói phức tạp, ý chí là mồi lửa giúp cho bản lĩnh bùng cháy. Ông bà ta có câu “có chí thì nên” cũng là vì lẽ đó. Chưa nói đến khả năng bạn đến đâu, chỉ riêng việc bạn có cho mình một ý chí sắt đá cùng niềm tin vững vàng thì bạn đã đi trước người khác một bước! Nhưng, cái gì cũng có cái giá của nó, ý chí cũng không phải là một ngoại lệ. Để có được một tinh thần thép khi đứng trước bão tố của cuộc đời, bạn sẽ phải bỏ ra rất nhiều thời gian và công sức để mài sắt luyện kim! Vậy nên, người nói được câu “Tôi có ý chí” thì rất nhiều, nhưng người mà hành động của họ nói lên điều đó thì quả thực không được mấy ai. Những người chỉ mới giáp mặt cơn lốc xoáy hung tợn đã nhụt chí xin hàng, hay những kẻ sẵn sàng quỳ gối trước những thế lực mạnh mẽ, tất cả bọn họ suy cho cùng đều là vì thiếu đi cái ý chí cần thiết. Họ không biết cách tự tạo cho riêng mình một đế chế hùng mạnh. Những người như thế, chung quy lại, cũng chỉ mãi là kẻ thất bại mà thôi. Còn bạn? Bạn sẽ chọn con đường gập ghềnh hướng tới tương lai hay biến mình thành một con ốc chỉ biết thu mình trong vỏ?

Đoạn văn mẫu 5

Ý chí nghị lực là bệ phóng đưa con người đến với thành công. Nghị lực, ý chí chính là bản lĩnh, lòng quyết tâm vươn lên trong cuộc sống của mỗi con người. Có ý chí, con người luôn vững vàng trước thử thách phong ba. Họ cho khó khăn là trải nghiệm; xem nghịch cảnh là môi trường để rèn luyện. Qua khó khăn đó, ý chí nghị lực được hình thành, được tôi luyện, con người mới có thể hiên ngang, bản lĩnh giữa cuộc đời. Người có ý chí là người luôn dám đương đầu với mọi thử thách, luôn bền gan vững chí trước mọi sóng lớn gió to. Họ sống mạnh mẽ, cứng cỏi, kiên cường; thất bại không nản. Nguyễn Ngọc Ký, Nick Vujicic, Helen Keller… là những tấm gương sáng, đem đến cho ta bài học quý báu về giá trị của ý chí, nghị lực và sự quyết tâm. Người có ý chí nghị lực luôn được mọi người yêu quý và trân trọng. Người có ý chí, nghị lực biết khắc phục hạn chế của bản thân, tìm ra đường đi từ ngõ cụt, biết xuyên thủng màn đêm của khó khăn để bước ra ánh sáng. Bởi thế ý chí nghị lực là sức mạnh vô hạn tận giúp người sở hữu nó chiến thắng tất cả để bước tới thành công.

Đoạn văn về ý chí và nghị lực Đoạn văn mẫu 1

Muốn vượt qua gian nan thử thách trên đường đời, con người không thể thiếu đi nghị lực. Vậy nghị lực là gì? Đó là là ý chí, là bản lĩnh, lòng quyết tâm vươn lên trong cuộc sống. Người giàu nghị lực luôn có sức sống mạnh mẽ, dám đương đầu với mọi thử thách khó khăn, kiên trì vượt qua nghịch cảnh để đi đến thành công. Trong thực tế, ta có thể bắt gặp không ít con người như vậy. Nguyễn Ngọc Kí thiếu đi đôi tay nhưng không ngừng nỗ lực để trở thành một người thầy đáng kính, Nick Vujicic sinh ra với tứ chi khiếm khuyết nhưng chưa một lần chịu thua số phận, Stephen Hawking bị bại liệt ở tuổi ngoài 20 và được ngợi ca là nhà vật lí học đương đại nổi tiếng nhất… Họ chính là những tấm gương sáng, đem đến cho ta bài học quý báu về giá trị của ý chí, nghị lực và sự quyết tâm. Vậy nhưng, trong xã hội vẫn có một số người có lối sống ỷ lại, dựa dẫm, không có tinh thần phấn đấu, ý chí tiến thủ. Không chỉ tự đưa mình vào ngõ cụt, những người như vậy còn kéo lùi dòng chảy văn minh của nhân loại, trở thành gánh nặng cho gia đình và xã hội. Thế hệ trẻ hôm nay cần phê phán lối sống này, không ngừng rèn đức luyện tài, nỗ lực bằng tất cả khả năng để có thể vững vàng tiến về phía trước. Bởi đúng như Chủ tịch Hồ Chí Minh từng nói, “Tuổi trẻ là tuổi của tương lai. Muốn có tương lai tốt đẹp thì phải chiếm lấy bằng ý chí và nghị lực của chính bản thân”.

Đoạn văn mẫu 2

Cuộc sống là muôn vàn những khó khăn thử thách yêu cầu chúng ta phải vượt qua chúng thì mới đạt được thành công. Để làm được như vậy thì ý chí và nghị lực chính là hai yếu tố quan trọng, tác động trực tiếp đến sự thành bại của mỗi người. Ý chí là khả năng xác định, điều khiển bản thân theo mục tiêu đề ra và quyết tâm thực hiện nó. Nghị lực là tinh thần, sức mạnh kiên cường vượt qua khó khăn, gian khổ. Người có ý chí và nghị lực sẽ luôn được mọi người yêu quý, giúp đỡ và tin tưởng. Ý chí và nghị lực là hai phẩm chất luôn đi kèm với nhau, có ý nghĩa vô cùng quan trọng trong cuộc sống. Khi chúng ta gặp phải khó khăn thì chỉ cần có ý chí và nghị lực, ta sẽ tìm ra được cách giải quyết và vượt qua những khó khăn đó. Minh chứng rõ nhất cho điều này chính là ý chí quyết tâm chiến đấu, nghị lực phi thường của dân tộc Việt Nam trong các cuộc kháng chiến chống giặc ngoại xâm đã mang lại thắng lợi vẻ vang và độc lập tự do cho Tổ quốc. Vậy để rèn luyện ý chí và nghị lực sống, chúng ta cần phải làm gì? Là một học sinh, ý chí và nghị lực được rèn luyện nếu ta luôn cố gắng, nỗ lực vươn lên trong học tập dù trong bất cứ khó khăn, thử thách nào.

Đoạn văn mẫu 3 Đoạn văn mẫu 4

Cuộc sống chưa bao giờ dễ dàng với bất cứ ai. Muốn tồn tại, phát triển và thành công, con người cần phải có nghị lực sống mạnh mẽ, kiên cường. Hiểu đơn giản, nghị lực sống chính là ý chí kiên định trước cuộc sống, không bao giờ chịu khuất phục hay giục ngã trước khó khăn, thử thách. Không bao giờ bị khuất phục trước khó khăn, thử thách. Ai cũng cần có nghị lực sống bởi chính nghị lực sống giúp bạn chiến thắng nghịch cảnh, sống một cuộc đời đầy y nghĩa. Có nghị lực sống, con người sẽ có tự tin vào bản thân và cuộc sống, làm tốt mọi công việc, lạc quan hướng đến tương lai. Chính nghị lực sống bền bỉ và ý chí kiên định giúp con người chinh phục mọi thứ, làm nên cuộc sống tươi đẹp. Không có nghị lực sống, ngay cả những việc làm đơn giản nhất cũng không thể hoàn thành, tinh thần bi quan, sợ hãi, sống cuộc đời hèn kém. Nghị lực sống không phải là thứ sẵn có mà là năng lực cần phải rèn luyện. Kiên định ý chí, giữ vững lập trường, kỉ luật cao, không bao giờ né tránh hay lùi bước trước khó khăn thử thách, xông xáo làm việc, cống hiến sức mình trong công việc sẽ giúp bạn có nghị lực sống vững mạnh. Nghị lực sống là điều cần có để con người hướng đến sống một cuộc đời trọn vẹn. Không thể có một cuộc sống trọn vẹn mà thiếu nghị lực sống. Chính nghị lực sống là yếu tố giúp ta vượt qua khó khăn, trở ngại, đứng vững giữa cuộc đời và làm được nhiều điều hữu ích. Thiếu đi nghị lực sống, con người dễ bị khuất phục và sớm bị loại bỏ.

Advertisement

Viết đoạn văn 200 chữ về nghị lực sống Đoạn văn mẫu 1

Con người để hoàn thiện bản thân thì phải không ngừng trau dồi nhiều đức tính quý báu. Một trong những yếu tố quan trọng làm nên thành công mà mỗi con người cần phải rèn luyện chính là ý chí, nghị lực. Vậy thế nào là ý chí? Ý chí, nghị lực sống của con người trì là sự nhẫn nại, cố gắng, quyết tâm vươn lên, theo đuổi mục tiêu của mình cho dù gặp nhiều khó khăn, trở ngại và vấp ngã. Tất cả mọi việc trên đời này không phải dễ dàng mà thành công được, để đạt được thành công, chúng ta phải cần có ý chí theo đuổi mục tiêu. Có thể nói, ý chí, nghị lực chính là một trong những yếu tố quan trọng nhất quyết định đến thành công của con người. Nếu trong xã hội con người ai khi gặp khó khăn cũng bỏ cuộc thì xã hội sẽ không phát triển được như hiện nay, con người sẽ rơi vào bế tắc. Bên cạnh đó, người có ý chí, nghị lực luôn là tấm gương sáng để chúng ta học tập và noi theo, giúp xã hội này tiến bộ hơn. Tuy nhiên, trong xã hội vẫn còn có nhiều người nóng vội, muốn đạt được thành quả nhanh chóng, lại có người dễ nản chí, bỏ cuộc khi gặp khó khăn,… những người này đáng bị xã hội chỉ trích, phê phán. Mỗi chúng ta ai cũng hiểu được vai trò, tầm quan trọng của ý chí đối với cuộc sống, chính vì thế, chúng ta cần rèn luyện cho bản thân mình một ý chí bền bỉ, sẵn sàng đối mặt với mọi khó khăn, thử thách.

Đoạn văn mẫu 2

Cuộc sống của chúng ta có muôn vàn những khó khăn, thử thách yêu cầu phải vượt qua thì mới đạt được thành công. Để làm được điều đó thì ý chí và nghị lực chính là hai yếu tố quan trọng, tác động trực tiếp đến sự thành bại của mỗi người. Ý chí là khả năng xác định, điều khiển bản thân theo mục tiêu đề ra và quyết tâm thực hiện nó. Nghị lực là tinh thần, là sức mạnh kiên cường vượt qua khó khăn, gian khổ. Người có ý chí và nghị lực sẽ luôn được mọi người yêu quý, giúp đỡ và tin tưởng. Ý chí và nghị lực là hai phẩm chất luôn đi kèm với nhau và luôn có ý nghĩa vô cùng quan trọng trong cuộc sống. Khi chúng ta gặp phải khó khăn thì chỉ cần có ý chí và nghị lực thì chúng ta sẽ tìm ra được cách giải quyết và vượt qua những khó khăn đó. Minh chứng rõ nhất cho điều này chính là ý chí quyết tâm chiến đấu, nghị lực phi thường của dân tộc Việt Nam trong các cuộc kháng chiến chống giặc ngoại xâm đã mang lại thắng lợi vẻ vang và độc lập tự do cho Tổ quốc. Vậy để rèn luyện ý chí và nghị lực sống, chúng ta cần phải làm gì? Khi đang là một học sinh, ý chí và nghị lực được rèn luyện nếu ta luôn cố gắng, nỗ lực vươn lên trong học tập dù trong bất cứ khó khăn, thử thách nào.

Đoạn văn mẫu 3

Cuộc sống của mỗi người là do chính bản thân chúng ta định đoạt. Chính vì thế, chúng ta không thể ỷ lại, dựa dẫm vào người khác mãi được mà phải có ý chí vươn lên, tự mình làm chủ cuộc sống bởi lẽ: “Nơi nào có ý chí, nơi đó có con đường”. Ý chí là sự nhẫn nại, cố gắng, quyết tâm vươn lên, theo đuổi mục tiêu của mình cho dù gặp nhiều khó khăn, trở ngại và vấp ngã. Câu nói khuyên nhủ mỗi chúng ta hãy luôn cố gắng, nỗ lực vươn lên trong cuộc sống của mình, sự nỗ lực, kiên trì sẽ giúp chúng ta tìm được định hướng, con đường đúng đắn để đi đến thành công. Tất cả mọi việc trên đời này không phải dễ dàng mà thành công được, để đạt được thành công, chúng ta phải cần có ý chí theo đuổi mục tiêu. Có thể nói, ý chí, nghị lực chính là một trong những yếu tố quan trọng nhất quyết định đến thành công của con người. Nếu trong xã hội con người ai khi gặp khó khăn cũng bỏ cuộc thì xã hội sẽ không phát triển được như hiện nay, con người sẽ rơi vào bế tắc. Bên cạnh đó, người có ý chí, nghị lực luôn là tấm gương sáng để chúng ta học tập và noi theo, giúp xã hội này tiến bộ hơn. Tuy nhiên, trong xã hội vẫn còn có nhiều người nóng vội, muốn đạt được thành quả nhanh chóng mà hành động không có sự chỉn chu, tính toán kĩ lưỡng dẫn đến thất bại. Lại có người dễ nản chí, bỏ cuộc khi gặp khó khăn,… những người này khó có được thành công trong cuộc sống và sẽ sớm bị xã hội đào thải. Sống có ý chí là một đức tính tốt đẹp mà chúng ta cần rèn luyện trong quá trình hoàn thiện và phát triển bản thân. Không một ai là hoàn hảo, nhưng khi ta biết cố gắng hoàn thiện bản thân và vươn lên phía trước, chúng ta sẽ đạt được những thành quả xứng đáng với công sức bỏ ra.

Đoạn văn mẫu 4

Có người đã từng nói: “Giữa lớp sỏi đá khô cằn cây hoa dại vẫn tốt lên và nở những chùm hoa thật đẹp”. Vậy điều gì đã khiến cho cây hoa dại giữa một vùng sỏi đá khô cằn thiếu nước, thiếu chất dinh dưỡng ấy vẫn xanh tốt và hiến dâng cho đời những chùm hoa tuyệt đẹp? Đó chính là nhờ vào ý chí, nghị lực sống. Con người cũng vậy, muốn có được thành công thì phải có ý chí vươn lên. Ý chí là những cố gắng quyết tâm vượt qua thử thách cho dù những thử thách đó có khó khăn, gian khổ đến đâu. Để đạt được mục đích, con người phải có nghị lực để thực hiện chứ không thể trông chờ vào may mắn, hay phụ thuộc vào hoàn cảnh. Cuộc sống là như vậy, có ai thành công mà không phải nếm trải sự cay đắng, khổ cực, có ai bước đến đỉnh vinh quang mà không phải bước chân trên con đường đầy chông gai, nguy hiểm. Chúng ta không thể biết con đường đời sẽ dẫn ta đến đâu nếu ta chưa thực sự đi qua nó. Có rất nhiều khả năng mà ta không thể kiểm soát được. Điều duy nhất có thể làm là ta phải biết làm chủ mình, đưa ra quyết định thật đúng đắn và quyết tâm kiên trì theo đuổi đến cùng. Nhưng không phải ai cũng làm được điều đó, có những người khi gặp khó khăn thử thách họ chỉ biết chạy trốn thay vì là tìm cách vượt qua, đây là những người không có nghị lực sống, điều này tương đương với việc họ đã tự đánh mất đi chiếc chìa khóa quan trọng có thể mở mọi cánh cửa trong cuộc đời họ – chiếc chìa khóa mà do chính họ nắm giữ. Trong cuộc sống còn nhiều gian nan, thử thách thì có ý chí là điều rất quan trọng, có ý chí, có niềm tin thì ta có thể vượt qua mọi khó khăn để đưa những bước chân gần hơn với thành công và hạnh phúc. Chúng ta nên nhớ rằng đừng bao giờ từ bỏ khi bạn vẫn còn ước mơ, và nghị lực sẽ giúp bạn thực hiện ước mơ đó.

Văn Mẫu Lớp 8: Phân Tích Tác Phẩm Bàn Luận Về Phép Học (Sơ Đồ Tư Duy) 2 Dàn Ý &Amp; 10 Mẫu Bàn Luận Về Phép Học Của Nguyễn Thiếp

Bài tấu Bàn luận về phép học của Nguyễn Thiếp đã giúp cho chúng ta thấu hiểu tác dụng của việc học, để không ngừng nỗ lực, phấn đấu trở thành người có ích cho xã hội. Chi tiết mời các em cùng theo dõi bài viết để có thêm nhiều vốn từ, ngày càng học tốt môn Văn 8:

1. Mở bài

Bàn luận về phép học là một bài tấu đã khát quát và đưa ra một cách khách quan nhất về mục đích của việc học và cách học sao cho đúng đắn đạt hiệu quả.

2. Thân bài

a. Bàn luận về mục đích của việc học

Chỉ bằng con đường học tập thì con người mới trưởng thành, là người có đạo đức

Học là một quá trình tất yếu, quy luật muôn đời

Phê phán lối học hình thức

Nêu lên hậu quả khôn lường của những lối học tiêu cực ấy

⇒ Những lời bàn luận sâu sắc, nghiêm túc, xác đáng với tầm nhìn cao rộng, đầy tâm huyết với nước nhà

b. Bàn luận về cách học

Phê phán những cách học sai lầm và nêu rõ mục đích tai hại của nó

Tác giả cũng đã trình bày quan điểm tích cực của mình về chủ trương phát triển sự học cho thật hiệu quả

Bên cạnh đó tác giả còn nêu lên chủ trương phát triển sự học sâu rộng khắp cả nước

⇒ Về nội dung học, tác giả vẫn đi theo truyền thống cũ, không đưa ra điều gì mới mẻ mà chủ yếu là cải cách về phương pháp học

c. Tác dụng của phép học

Mục đích học chân chính, cách học tích cực sẽ là cơ sở vững chắc cho đạo học, bồi dưỡng được nhân tài cho quốc gia

⇒ Tin tưởng rằng, học chân chính nhất đinh trường tồn và cũng gửi gắm niềm hi vọng về tương lai tốt đẹp của đất nước

3. Kết bài

Khẳng định lại giá trị nội dung, nghệ thuật: Là bản tâu của Nguyễn Thiếp về việc học để phần nào củng cố, kiến thiết xây dựng nước nhà phát triển theo hướng chú trọng giáo dục.

Liên hệ: Bản thân mỗi người nhất là học sinh cần chú trọng việc học tập, tu dưỡng để đưa đất nước ngày càng giàu đẹp bằng con đường học tập chân chính

I. Mở bài:

– “Bàn luận về phép học” là một văn bản chính luận sắc bén, ngắn gọn của La Sơn Phu Tử Nguyễn Thiếp.

II. Thân bài:

Luận điểm 1: Tác giả nêu lên mục đích chính của việc học

– Lựa chọn cách nói trực tiếp, không vòng vo, tác giả khẳng định mục đích chính của việc học là học đạo lý, học làm người bằng sự so sánh, liên tưởng đến hiện tượng có thật: ngọc không mài không thành đồ vật.

* Luận điểm 2: Phê phán những lối học sai trái, lệch lạc, không đạt hiệu quả

– Tác giả tiếp tục nêu thẳng thực trạng nền giáo dục nước ta từ khi lập quốc đã bị thất truyền. Các lối học ông đưa ra phê phán bao gồm:

+ Lối học a dua, hình thức.

+ Lối học hòng cầu danh lợi.

+ Đặc điểm chung của cả 2 lối học này và những lối học tiêu cực khác là đều không quan tâm đến tam cương, ngũ thường, đến kiến thức thực học mà chỉ để thỏa mãn những nhu cầu không chính đáng.

+ Kết quả của những lối học lệch lạc: Hỏng từ chúa đến quần thần đến dân chúng. Chính điều ấy là một trong những nguyên nhân khiến nước mất nhà tan, vận nước ngắn ngủi, đời sống nhân dân không thể phát triển, văn minh được.

* Luận điểm 3: Tác giả đề ra những phương pháp học đúng đắn, hiệu quả

– Mở rộng trường học, tạo điều kiện thuận lợi cho người dân cả nước được đi học không kể giai cấp, tầng lớp.

– Về tư tưởng, đạo lí gốc thì nhất định phải theo Chu Tử.

– Về phương pháp học: học từ đơn giản đến phức tạp, tiến dần theo từng cấp học, học gắn liền với thực hành.

⇒ Kết quả: đào tạo được nhân tài, nhà nước thịnh trị.

– Ý nghĩa của phép học chân chính: tác giả dùng cách nói tăng tiến để thấy được mối quan hệ giữa giáo dục với chính trị: giáo dục tạo ra người tài đức, đất nước có người tài thì sẽ thái bình thịnh trị.

* Luận điểm 4: Nghệ thuật

– Lập luận chặt chẽ.

– Cách hành văn ngắn gọn, dễ hiểu, thuyết phục, không bị vòng vo, rườm rà.

III. Kết bài:

– Khẳng định lại giá trị tác phẩm: Với cách lập luận chặt chẽ, tác phẩm đã đưa ra được mục đích và phương pháp của việc học chân chính.

– Liên hệ, đánh giá: Qua đó, ta thấy được tài năng, tấm lòng của tác giả với sự nghiệp xây dựng đất nước.

La Sơn Phu Tử Nguyễn Thiếp là danh sĩ nổi tiếng cuối đời Hậu Lê và là một trong những vị khai quốc công thần triều Tây Sơn, người có công rất lớn trong công cuộc đánh đuổi quân Thanh, xây dựng, sửa sang đất nước, chấn hưng nền giáo dục nước nhà lúc bấy giờ. Bàn luận về phép học (Luận học pháp) là bài viết tiêu biểu, phản ánh đầy đủ tài trí, tư tưởng và bản lĩnh của Nguyễn Thiếp.

Khi được hỏi về kế sách trị quốc về lâu dài, tháng 8 năm 1791, Nguyễn Thiếp đã dâng vua Quang Trung bản tấu văn với ba phần gồm: quân đức (đức của vua), dân tâm (lòng dân), và học pháp (phép học). Nội dung chính của ba phần thực ra đều thống nhất ở chỗ, là lời khuyên vua nên tu đức để khiến lòng dân quy thuận, tính kế lâu dài. Trong đó, phần cuối – Luận học pháp (được đưa vào trích giảng trong chương trình Ngữ văn 8) chủ yếu bàn về phép học để thông qua đó, định hướng cả xã hội hướng theo đạo lí Thánh hiền. Đây cũng là đoạn chứa đựng những tư tưởng giáo dục có ý nghĩa chiến lược của La Sơn Phu Tử.

Phần đặt vấn đề của đoạn này ngắn gọn nhưng khái quát được ý nghĩa sâu xa của việc học, bằng cách trích dẫn câu châm ngôn mà lí lẽ của nó được coi là đúng một cách hiển nhiên: “Ngọc không mài, không thành đồ vật; người không học, không biết rõ đạo”. Vai trò và mục đích của việc học là để hiểu đạo lí. Đạo – theo tác giả, “là lẽ đối xử hằng ngày giữa mọi người”. Học để hiểu đạo là học để hiểu lẽ đối xử hằng ngày giữa mọi người. Con người dẫu thông minh, dẫu có “tính bản thiện” nhưng nếu không được học hành cũng như ngọc không được mài.

Tiếp đó, tác giả nêu ra một thực trạng của nền giáo dục đương thời mà bất cứ nhà nho chân chính nào cũng phải đau lòng: “Nước Việt ta từ khi lập quốc đến giờ, nền chính học đã bị thất truyền”. Người học không chú ý học những tri thức mang tính căn cốt mà chỉ “đua nhau lối học hình thức”; không coi trọng mục đích học để hiểu đạo lí mà chỉ để thi cử “hòng cầu danh lợi”. Theo quan niệm của nhà nho xưa, nếu quá coi trọng danh lợi, người ta dễ đánh mất tính thiện của mình, coi trọng danh lợi là phải mưu toan, phải tranh đoạt và tất cả những hiện tượng đó sẽ là nguyên nhân để người ta bất chấp đạo lí. Thế nên, Nguyễn Thiếp cho rằng, vì đua nhau lối học hình thức mà con người “không còn biết đến tam cương, ngũ thường”.

Tam cương là ba mối quan hệ được nhà nho xưa coi là giềng mối, là trụ cột của của gia đình và xã hội; đó là mối quan hệ giữa vua – tôi (quân – thần), cha – con (phụ – tử) và vợ – chồng (phu – thê). Có thể ngày nay ta lí giải khác về nguyên nhân dẫn đến sự ổn định hoặc bất ổn của một xã hội nhưng ở thời Nguyễn Thiếp, các nhà nho chân chính đều tin rằng: nếu trong gia đình, mối quan hệ cha – con, vợ – chồng được duy trì tốt thì gia đình yên ấm; trong xã hội, mối quan hệ vua – tôi được duy trì tốt thì xã hội ổn định kỉ cương. Sự duy trì tốt của Tam cương có liên hệ chặt chẽ với Ngũ thường. Ngũ thường là năm đức tính để con người ta trở nên có đạo, có đức gồm: nhân, nghĩa, lễ, trí, tín. Tam cương là để duy trì phép nước và nếp nhà (quốc pháp, gia quy); ngũ thường là để tu thân, sửa đức. Xã hội thiếu Tam cương thì riềng mối trụ cột lung lay, dễ trở nên loạn lạc; con người thiếu ngũ thường sẽ không biết ứng xử, hành động theo lễ nghĩa, dễ trở nên vô đạo. Bằng ngòi bút phê phán, Nguyễn Thiếp đã chỉ rõ, lối học hình thức, “hòng cầu danh lợi” là mối nguy hại của đất nước: tạo ra một tâm lí chung không coi trọng đạo lí; không coi trọng đạo lí dẫn tới một thực trạng kéo dài “chúa tầm thường, thần nịnh hót”.

Từ việc xác định rõ thực trạng giáo dục đương thời, chỉ ra nguy cơ mất nước nếu không xác định trúng mục đích của sự học, Nguyễn Thiếp đã đưa ra những giải pháp có tính toàn diện để mong làm thay đổi căn bản nền giáo dục nước nhà.

Trước tiên – theo tác giả, phải mở rộng quy mô của việc học và đối tượng học. Nguyễn Thiếp đã khẩn thiết “cúi xin từ nay ban chiếu thư cho thầy trò trường học của phủ, huyện, các trường tư, con cháu các nhà văn võ, thuộc lại ở các trấn cựu triều, đều tùy đâu tiện đấy mà đi học”. Ở thời phong kiến, việc học chỉ được tập trung ở kinh kỳ và những địa điểm trung tâm, đối tượng đi học chủ yếu là con em quan lại, quý tộc. Vì thế, giải pháp này nhằm khắc phục sự hạn chế về quy mô và đối tượng học trước đó, tạo điều kiện thuận lợi có ý nghĩa “phổ cập” cho nhiều người được đi học và có thể đi học ở nơi gần nhất.

Sau nữa, tác giả đề xuất giải pháp thay đổi cả nội dung lẫn phương pháp dạy và học. Ông cho rằng: “Phép dạy, nhất định phải theo Chu Tử”. Chu Tử là nhà giáo dục nổi tiếng thời Nam Tống, ông là người đề xướng và kiên trì phương pháp dạy học phải đi tuần tự từ thấp đến cao. Và theo phép dạy ấy Nguyễn Thiếp khuyên rằng, người học “lúc đầu học tiểu học để bồi lấy gốc. Tuần tự tiến lên học đến Tứ thư, Ngũ kinh, Chư sử. Học rộng rồi tóm lược cho gọn, theo điều học mà làm”. Nội dung giáo dục mà La Sơn Phu Tử đề xuất tuy không còn phù hợp với ngày nay nhưng tư tưởng và phương pháp giáo dục này luôn đúng ở mọi thời đại. Ở thời nào, người học muốn có thành tựu đều phải học tuần tự từ thấp đến cao, ở thời nào người học cũng phải cần một khả năng khái quát (học rộng rồi tóm lược cho gọn) và ở bất kỳ thời nào người học cũng phải chú ý nguyên tắc “học đi đôi với hành” (theo điều học mà làm).

Giải pháp thay đổi cách dạy và cách học mà Nguyễn Thiếp đề xuất nhằm hướng đến khắc phục lối học hình thức, khôi phục “nền chính học thất truyền”, chống bệnh học chỉ để cầu danh lợi. Đây cũng là con đường để hướng tới mục đích cao hơn, xa hơn: để cho “kẻ nhân tài mới lập được công, nhà nước nhờ thế mà vững yên”.

Bản tấu văn tuy chỉ bàn về phép học nhưng ở đó có cả những tư tưởng mang tính chiến lược về trị quốc lâu dài: tư tưởng trọng người tài, phù hợp với nội dung Chiếu cầu hiền của vua Quang Trung (Do Ngô Thì Nhậm soạn). “Đó mới thực là cái đạo ngày nay có quan hệ tới lòng người. Xin chớ bỏ qua”. Câu văn này tuy ngắn nhưng chứa đựng biết bao những trăn trở của một trí thức tâm huyết muốn đem tài học giúp đời, là giọng điệu của bề tôi trung muốn đem tâm nguyện để giúp minh quân thu phục được lòng người, là cách ổn định phép nước từ trong gốc rễ bởi chỉ có dùng đạo học trị quốc, lấy chữ nghĩa Thánh hiền để giáo hóa con người, thu phục được nhân tâm, quy nhân tâm về một mối thì thiên hạ mới thái bình. Phải đặt trong hoàn cảnh thời đại Nguyễn Thiếp sống, khi chế độ phong kiến khủng hoảng, chiến tranh liên miên, dân sinh điêu đứng mới thấy cái khát khao một nhà nước “vững yên” tha thiết đến nhường nào. Khát khao ấy được tác giả gửi cả vào bản tấu, gửi cả vào vị vua mà ông tin rằng đó là minh quân, thánh đế – vua Quang Trung.

Ở phần kết tác, giả tóm lược vấn đề bằng một câu văn ngắn gọn và vẫn nói về vai trò của việc học: “Đạo học thành thì người tốt nhiều; người tốt nhiều thì triều đình ngay ngắn mà thiên hạ thịnh trị”. Nếu ở phần nêu thực trạng, tác giả lập luận theo lối nêu phản đề thì ở phần kết là lối nêu chính đề. Phản đề cho rằng, đạo học suy khiến triều đình chỉ có “chúa tầm thường, thần nịnh hót”; chính đề cho rằng khi đạo học thành thì “triều đình ngay ngắn, thiên hạ thịnh trị”. Đó là tư tưởng, là mục đích cốt lõi của việc học.

Luận học pháp nói riêng và toàn bộ bản tấu văn của Nguyễn Thiếp gửi vua Quang Trung là văn bản giàu sức thuyết phục. Sức thuyết phục của bản tấu thể hiện lời lẽ ôn hòa, khiêm cung, dung dị; không dùng nhiều điển tích, điển cố nhưng sâu sắc và hợp tình, hợp lí. Tư tưởng của Nguyễn Thiếp – như đã nói ở trên, không mới nhưng đáng trọng ở chỗ giàu tính nhân văn. Tư tưởng ẩy còn thể hiện tầm nhìn xa, là sự chú trọng đến việc ổn định đất nước lâu dài của một bậc hiền giả và việc nêu ra mối quan hệ giữa giáo dục với sự ổn định, phồn vinh lâu dài của đất nước vẫn luôn là bài học, là tư tưởng không thể bác bỏ.

“Bàn luận về phép học” là đoạn văn trích từ hài tấu của Nguyễn Thiếp gửi vua Quang Trung vào tháng 8-1791. Lúc bấy giờ Nguyễn Thiếp đang làm Viện trưởng viện Sùng chính, phụ trách việc biên soạn sách và xây dựng Trung đô Phượng Hoàng (Nghệ An), một công việc vô cùng to lớn và hết sức nặng nề.

Bài tấu này thể hiện cái tâm của Nguyễn Thiếp đối việc chấn hưng nền quốc học, nền giáo dục nước nhà, nhằm mở mang dân trí, đào tạo nhân tài cho đất nước.

Các vấn đề như mục đích việc học, nội dung học tập và phương pháp học tập đã được Nguyễn Thiếp trình bày một cách ngắn gọn và tường tận.

Mở đầu, ông nhắc lại câu cổ ngữ: “Ngọc không mài, không thành đồ vật; người không học, không biết rõ đạo”. Vậy mục đích học là biết “lẽ đối xử hàng ngày giữa mọi người”. Nói cách khác, học để mở mang trí tuệ và bồi bổ đạo đức. Đạo mà Nguyễn Thiếp nói đến là đạo làm người. Ông than phiền “nền chính học đã bị thất truyền”, Có biết bao tệ lậu đáng chê trách như “đua nhau lối học hình thức hòng cầu danh lợi”, coi thường đạo lí “không còn biết đến tam cương, ngũ thường”. Nhà dột từ nóc: “Chúa trọng nịnh thần”. Ví dụ, cuối thời Lê – Trịnh, tệ nạn buôn quan bán tước hoành hành. Sử sách cho biết vào năm 750, đời vua Lê Hiển Tông, vì Nhà nước thiếu tiền, đã đặt ra lệ thu tiền thông kinh: hễ ai nộp ba quan thì được đi thi hương, không phải khảo hạch. Thành ra những người làm ruộng, đi buôn, ai cũng nộp quyển vào thi; rồi người thì dùng sách, kẻ thì thuê người làm bài; kẻ thuê học mười người khống được một (theo Dương Quảng Hàm). Sống trong thời kì đen tối, loạn lạc ấy, Nguyễn Thiếp vô cùng đau buồn, thở than: “Nước mất nhà tan đều do những điều tệ hại ấy”. Nguyễn Thiếp đã có một cách nói trầm tĩnh, ôn hòa mà sâu sắc.

Phần thứ hai, Tiên sinh nói đến nội dung và phương pháp học tập. Học ở đâu? – Trường học của phủ, huyện, các trường tư, con cháu các nhà văn võ, thuộc lại “đều tùy đãi tiện đấy mà đi học”. Học cái gì? Tác giả bài tấu cho hay: “Nhất định theo Chu Từ” (1130 – 1200). Một học giả đời Nam Tống. Nội dung học tập: “Lúc đầu học tiểu học để bồi lấy gốc. Tuần tự tiến lên học đến Tứ thư, Ngũ kinh, Chư sử”. Điều đó cho thấy, nội dung học tập mà Nguyễn Thiếp nêu lên không có gì mới, ông chưa vượt qua được những hạn chế của lịch sử và của thời đại. Sách Tàu đi mấy nghìn năm vẫn được tôn thờ! vẫn coi trọng thơ văn, chưa hướng tới khoa học.

Về phương pháp học, ý kiến của Nguyễn Thiếp rất xác đáng và tiến bộ. Coi trọng vấn đề thiết yếu cơ bản: “Học rộng rồi tóm lược cho gọn”. Học phải đi đôi với hành “theo điều học mà làm”. Niềm mong ước của ông rất đẹp và chân thành: “Họa may kẻ nhân tài mới lập được công, Nhà nước nhờ thế mà vững yên. Đó mới thực là cái đạo ngày nay có quan hệ tới lòng người. Xin chớ bỏ qua”.

Đạo học, ý nghĩa to lớn của đạo học: “Đạo học thành thì người tốt nhiều, người tốt nhiều thì triều đình ngay ngắn mà thiên hạ thịnh trị”. Đúng là việc học góp phần đào tạo nhân tài, mở mang dân trí, góp phần xây dựng đất nước thịnh trị. Chiến lược “trồng người” được Tiên sinh nói lên thật sáng tỏ.

Phần cuối, Nguyền Thiếp giãi bày lòng mình. Bài tấu nói về phép học là những lời “thành thật”, chứ không phải “lời nói vu vơ”, ông khiêm tốn và cung kính “cúi mong Hoàng thượng soi xét”.

Nguyễn Thiếp đức trọng tài cao, được người đương thời kính ái gọi là La Sơn phu tử. Tài năng của ông chưa kịp thi thố, thì vua Quang Trung băng hà. Ông đã từ chức và lui về núi cũ rừng xưa, ở ẩn. Ông đã qua đời năm 81 tuổi, thanh bạch và thanh cao. Bài tấu “Bàn luận về phép học” với những ý kiến của Tiên sinh về mục đích học tập, phương pháp học tập rất đúng đắn tiến hộ. về nội dung học tập, ý kiến của Tiên sinh chưa vượt qua được hạn chế của lịch sử và thời đại. Có điều, nhiệt tâm của La Sơn phu tử đối với nước với dân, đối với sự nghiệp trồng người đã để lại biết bao sự tôn kính, ngưỡng mộ cho hậu thế.

Đối với mỗi con người chúng ta việc học vô cùng quan trọng. Học giúp chúng ta tiếp thu thêm kiến thức và tương lai trở nên rộng mở hơn. Bàn về vấn về ta không thể không nhắc đến bài luận về phép học của Nguyễn Thép. Trong bài này ông nêu rõ quan niệm của mình về mục đích học thực sự là đạo đức là tri thức, để góp phần hưng thịnh cho đất nước.

Đây là một phần trong bản tấu của Nguyễn thiếp gửi lên vua Quang Trung để nói lên quan điểm của mình. Đầu tiên chúng ta cần hiểu tấu là gì? Tấu là một loại văn bản của quan lại hoặc thần dân để trình bày một ý kiến về chính sách cai trị hoặc vấn đề quan trọng của quốc gia. Mở đầu đoạn trích tác giả dùng câu châm ngôn để thấy mục đích chân chính của việc học “ Ngọc không mài không thành đồ vật, người không học không biết rõ đạo” Thông qua câu nói này tác giả muốn nói lên mục đích học tập. Một viên ngọc không được mài giũa, không được trải qua quá trình tạo lắn thì mãi vẫn chỉ là một viên ngọc không có công dụng, chỉ làm đồ trang trí và giá trị của nó không được cao. Cũng giống như con người không được trải qua quá trình rèn luyện học tập để trở thành người có đạo đức có tri thức giúp ích cho xã hội được. Học ở đây không chỉ tiếp thu kiến thức mà còn học cách làm người, học cách đối nhân xử thế, học để sống tốt.

Bởi con người quan trọng nhất là phải có đạo đức, người có tài mà không có đức thì sẽ không dùng được. Dưới thời phong kiến xưa theo Nho giáo, học hành thi cử chính là con đường dẫn đến chốn quan trường, là cơ hội để đấng nam nhi góp sức mình cho đất nước.học tập là quy luật trong cuộc sống. Đạo học ngày xưa lấy đạo đức làm chính, đó là những cư xử trong tam cương ngũ thường ngày xưa. Tác giả dùng mục đích cao cả của việc học để soi vào thực tế, từ đó phê phán những biểu hiện lệch lạc sai trái trong xã hội đương thời gây tác hại to lớn cho quốc gia dân tộc. Ông nêu lên nền học chính truyền của ta đã bị mất thay vào đó và lối học, hòng mau danh lợi. Như vậy chúa tầm thường mà thần nịnh hót thì việc nước mất nhà tan là đương nhiên.

Học mà không hiểu nội dung là gì chỉ chăm chăm chú ý đến việc nhận được bổng lộc sau khi làm quan. Không tiếp thu được kiến thức lại còn đạo đức cũng không được. Vậy những con người như vậy làm quan thì đất nước ngày càng đi xuống chúng trở thành những con sâu mọt đi đục khoét của cải để hưởng vinh hoa phú quý. Ngày nay chúng ta gọi đó là học vẹt, học chỉ để đi thi chứ không nhớ gì. Thật lãng phí thời gian và tiền bạc. Một đất nước mà mà toàn những con người học như vậy thì sẽ ngày càng đi xuống và trì trệ, không có bước phát triển. Chúng ta cần phải thay đổi cách học. Tiếp theo Nguyễn Thiếp bàn về phương pháp và nội dung học tập. Ông xin vua Quang Trung mở rộng việc học trở nên rộng rãi, mở thêm trường lớp dạy học. Làm thế nào mà mọi việc đều có ý thức học và học ở bất cứ đâu “Thầy trò của các phủ huyện, trường tư, con cháu các nhà văn võ, thuộc lại ở các trấn cựu triều, đều tùy đâu tiện đấy mà học”.

Nguyễn Thiếp quả là người có tầm nhìn xa trông rộng, quan điểm của ông được nêu ra sau hai thế kỉ nhưng nó rất gắn liền chủ trương xã hội hóa giáo dục của Đảng và nhà nước ta hiện nay. Chúng ta đang áp dụng ý tưởng của ông vào thực tế. Về trình tự học thì theo ông ta phải học từ thấp đến cao từ nhỏ đến lớn, phải biết được những chữ cái trong bảng thì mới mong ghép lại được với nhau “ lúc đầu học tiểu học để bồi làm gốc. Tuần tự rồi học đến tứ thư, ngũ kinh, chư sử. Học rộng rồi tóm lược cho gọn, theo điều học mà làm.” Có thể nói muốn học rộng biết sâu trước tiên chúng ta cần phải học cái căn bản làm gốc rễ thì sau này mới có thể ở mang tầm kiến thức của mình một cách tốt nhất, giúp ích được cho đất nước. Còn nếu như không cái căn bản làm nền tảng mà muốn mở rộng kiến thức thì rất khó và nó sẽ sai lệch đi rất nhiều bởi nó không có gốc thì làm sao mà có ngọn.

Qua đây ta có thể thấy được tầm hiểu biết của ông vô cùng rộng lớn, bởi ông có những cái nhìn và quan niệm vô cùng đúng đắn về việc học.. Bác hồ cũng đã dạy: học để hành, học với hành phải phải đi đôi: học mà không hành thì vô ích, hành mà không học thì hành không trôi. Vậy học là gì, hành là gì. Học là quá trình tiếp thu kiến thức được đúc kết từ hàng ngàn năm trước. Chúng ta ở trường được học qua thầy cô, bạn bè. học qua sách vở, đài, báo internet. Học còn làm giàu kiến thức mở mang tầm hiểu biết giúp chúng ta biết nhiều hơn về mọi mặt của cuộc sống giúp công việc trở nên thuận lợi và tốt đẹp hơn. Hành là quá trình trình vận dụng kiến thức vào thực tế. Giống như người bác sỹ trải qua quá trình học tập tiếp thu kiến thức 6, 7 năm để sau khi ra trường dùng kiến thức của mình chữa bệnh cho bệnh nhân, hay như người công nhân vận dụng kiến thức và kinh nghiệm của mình để tạo ra sản phẩm tốt hơn,….

Rất nhiều những con người đang ngày ngày vận dụng kiến thức của mình vào thực tế. Nguyễn Thiếp khẳng định “ học để hành, nghĩa là học để hành tốt hơn. Trên thực tế thì học rất quan trọng tuy nhiên thì nếu ta học những kiến thức quá cao siêu mà không biết đem ra vận dụng thì việc học ấy trở nên tốn thời gian, tốn tiền của mà không có kết quả thì. Ngược lại hành mà không học thì cũng rất khó. Nếu ta chỉ làm theo thói quen và dựa vào kinh nghiệm của mình thì sẽ không đem lại hiệu quả cao và chậm. Và nó chỉ phù hợp với những công việc đơn giản nhẹ nhàng không cần dùng đến đầu óc trí tuệ, còn những công việc khoa học kỹ thuật cần những kiến thức chuyên môn thì kinh nghiệm không thì không đủ cần phải được học kiến thức.

Nguyễn Thiếp khi bày tỏ kiến của mình với vua luôn chân thành, khiêm tốn dùng những từ như: cầu xin, xin chớ bỏ qua,…” đồng thời thể hiện ông cũng thể hiện niềm tin của mình vào những điều được tấu. Cuối cùng tác giả khẳng định vai trò to lớn và lâu dài của việc học. Họa may kể nhân tài mới lập được công, nhờ thế nhà nước mới vững yên. Đó là mới thực là cái đạo ngày nay có quan hệ tới lòng người. Xin chớ bỏ qua. Đạo học thành thì người tốt nhiều, mà người tốt nhiều thì đạo học chân chính sẽ có sức mạnh. Nếu nói theo cách hiểu hôm nay của chúng ta thì đạo học chân chính sẽ có thể thay đổi được con người, xã hội và giúp ích được đất nước.

Thông qua bài tấu của tác giả chúng ta đã học được nhiều điều về phương pháp học đúng đắn, học sao cho đúng cho phù hợp đừng lãng phí thời gian và tiền bạc của mình. Đừng học theo kiểu học vẹt, học đối phó, học là để cho mình chứ đừng lười biếng xem nhẹ việc học.

Trong lịch sử nước ta, giới học thuật có đủ căn cứ để xếp bốn nhân vật vào hàng Phu tử, đó là Chu Văn An (1292-1370), Nguyễn Bỉnh Khiêm (1491-1585), Võ Trường Toản (1720-1792) và Nguyễn Thiếp (1723-1804). Trong bốn bậc phu tử đó, La Sơn phu tử Nguyễn Thiếp, sống thời Quang Trung – Nguyễn Huệ bách chiến bách thắng. La Sơn phu tử Nguyễn Thiếp sinh ngày 24-9-1723, mất ngày 6-2-1804, quê làng Nguyệt Ao, huyện La Sơn (nay là huyện Đức Thọ, tỉnh Hà Tĩnh). Ông đỗ Hương giải (1743) ra làm quan huấn đạo, tri phủ ít lâu thì cáo về, ở ẩn trên núi Thiên Nhẫn, đọc sách, nghiên cứu lý học. Ông nổi tiếng là người đạo hạnh thanh cao, có trình độ uyên bác. Cả nước hâm mộ tôn ông là bậc thầy. Ông cũng là con người cao sĩ, sống ẩn dật. Chúa Trịnh nhiều lần mời ông ra làm quan, nhưng ông từ chối. Chỉ đến khi vua Quang Trung kiên nhẫn cầu hiền đến ba bốn lần, ông mới nhận lời giúp. Chúa Trịnh nhiều lần mời ông ra làm quan, nhưng ông từ chối. Chỉ đến khi vua Quang Trung kiên nhẫn cầu hiền đến ba bốn lần, ông mới nhận lời giúp.

Bàn luận về phép học là đoạn văn trích từ bài tấu của Nguyễn Thiếp gửi vua Quang Trung vào tháng 8 – 1791. Vua Quang Trung từng mời Nguyễn Thiếp ra hợp tác với triệu Tây Sơn nhưng vì nhiều lý do nên ông chưa nhận lời. Ngày 10/7/1791, vua lại viết chiếu thư mời Nguyễn Thiếp vào Phú Xuân hội kiến vì có nhiều điều bài nghị. Lần này ông lòng vào Phú Xuân và dựa bàn quốc sự. Nhân lúc này, ông làm bài tấu bàn về 3 việc mà bậc quân vương nên biết. Một là về quân đức: Mong bậc đế vương một lòng tu đức, lấy sự học vấn mà tăng thêm tài sản, bởi sự học mà có đức, hai là bài về dân tộc (lòng dân). Khẳng định “Dân là gốc nước, gốc vững nước mới mạnh”, Ba là bàn về học pháp (phép học). Văn bản Bàn luận về phép học chính là nội dung thứ ba của bài tấu.

Đoạn trích Bàn luận về phép học có bố cục ba phần chặt chẽ: Bàn về mục đích của việc học, bàn về cách học, tác dụng của phép học.

Phần mở đầu, Nguyễn Thiếp nêu mục đích chân chính của việc học. Tác giả sử dụng câu châm ngôn vừa dễ hiểu vừa tăng thêm sức mạnh thuyết phục: ‘Ngọc không mài, không thành đồ vật; người không học, không biết rõ đạo”. Nhưng đạo ấy là gì? Ấy là cái đích của sự học vậy. Theo tác giả thì “Đạo là lẽ đối xử hằng ngày giữa mọi người”. Đạo dạy người ta về những mối quan hệ: hẹp thì với bản thân, trong gia đình, rộng ra là ngoài xã hội. Mối quan hệ ấy trong khuôn khổ của xã hội phong kiến không nằm ngoài khái niệm “tam cương”, “ngũ thường” quen thuộc. Tóm lại, học trước hết là học đạo làm người, học để “lập đức” cho mình, để “lập công” nghĩa là phải cống hiến tài năng cho xã hội. Đó là nền tảng của “chính học”, là cơ sở của một quốc gia nước mạnh dân giàu, xã hội thái bình, thịnh trị. Cách nhìn của tác giả đoạn văn có tầm chiến lược dài lâu vì nó đụng đến sự an nguy của xã tắc (tức đất nước).

Sau khi xác định mục đích của việc học, tác giả soi vào thực tế đương thời để phê phán những biểu hiện lệch lạc, sai trái trong việc học. Đó là “lối học hình thức hòng cầu danh lợi, không còn biết đến tam cương, ngũ thường”. Vậy thế nào là lối học hình thức hòng cầu danh lợi? Đó là lối học theo kiểu tầm chương trích cú, thuộc lòng từng câu từng chữ mà không hiểu kĩ về nội dung, học theo kiểu hữu danh vô thực. Học chỉ để đi thi, để ra làm quan, được trọng vọng, nhàn nhã và thu nhiều bổng lộc…

Tác hại của lối học lệch lạc, sai trái đó là làm cho “chúa trọng nịnh thần”, người trên, kẻ dưới đếu thích sự chạy chọt, luồn cúi, không có thực chất, dẫn đến cảnh “nước mất, nhà tan”.

Ngày nay, chúng ta gọi lối học đó là học vẹt, học để đối phó, thực chất chẳng tiếp thu được bao nhiêu Kiến thức. Thuộc bài là yếu tố rất cần trong học tập nhưng điều cốt yếu là phải hiểu nội dung, bản chất của vấn đề, từ đó có cách suy nghĩ, cách cảm nhận, sáng tạo riêng.

Sau khi phê phán những biểu hiện tiêu cực trong nhận thức về việc học, Nguyễn Thiếp đã nêu ra quan điểm và phương pháp học tập đúng đắn.

Việc học phải được phổ biến rộng khắp: mở thêm trường, mở rộng thành phần người học, tạo điều kiện thuận lợi cho người đi học: “Cúi xin từ nay ban chiếu thư cho thầy trò trường học của phủ, huyện, các trường tư, con cháu các nhà văn võ, thuộc lại ở các trấn cựu triều, đều tùy đâu tiện đấy mà đi học”. Nguyễn Thiếp quả là một bậc hiền tài có tầm nhìn xa trông rộng. Quan điểm hết sức tiến bộ của ông tuy nêu ra cách đây đã hai thế kỉ nhưng nó rất gần gũi với chủ trương xã hội hóa giáo dục của Đảng và Nhà nước ta hiện nay. Chúng ta đang áp dụng ý tưởng sáng suốt của ông vào thực tế giáo dục.

Theo Nguyễn Thiếp, việc học phải được bắt đầu từ những kiến thức có tính chất nền tảng. Và ông đưa ra các phương pháp học cụ thể.

Phương pháp thứ nhất, học tuần tự tiến lên, từ thấp đến cao: “Phép dạy, nhất định theo Chu Tử. Lúc đầu học tiểu học để bồi lấy gốc. Tuần tự tiến lên học đến tứ thư, ngũ kinh, chư sử”.

Phương pháp thứ hai, đó là học rộng, nghĩ sâu biết tóm lược những điều cơ bản, cốt yếu nhất. Với phương pháp này, Nguyễn Thiếp hướng dẫn người học một cách học đúng đắn, dễ nhớ kiến thức. Chúng ta thường mắc bệnh học nhiều, học tràn lan, nhưng cuối cùng lại không ghi nhớ được gì cả vì không biết nghĩ cho sâu, tóm cho gọn. Có như thế này thì người học mới có thể ghi nhớ được kiến thức của mình lâu và khoa học.

Phương pháp thứ ba học phải biết kết hợp với hành. Nói theo quan điểm của Phu Tử đó là “theo điều học mà làm”. Học không chỉ để biết mà còn để làm. Học đi đôi với hành là cách để hiểu và ứng dụng điều học có hiệu quả, điều đó khác với việc học chay, học vẹt, học lý thuyết suông, học một cách máy móc, sáo rỗng, có thể đọc nghìn cuốn sách “chữ chứa đầy bụng” nhưng khi bước vào đời thì ngu ngơ, rỗng tuếch, trở thành “thầy dở, thợ dốt”. Vì không “học đi đôi với hành”, vì không biết “theo điều học mà làm” nên nhiều người “đua học hình thức cầu danh lợi” như La Sơn Phu Tử chê trách. Cho nên học tập phải thu nhận được kết quả thiết thực và hữu ích. Sau này, Bác Hồ trong “Thư trung thu” – 1952, cũng khẳng định:

Ở phần cuối văn bản tiên sinh đã khẳng định tầm quan trọng của đạo học, ý nghĩa to lớn của đạo học: “Đạo học thành thì người tốt nhiều; người tốt nhiều thì triều đình ngay ngắn mà thiên hạ thịnh trị”. Đúng là việc học góp phần đào tạo nhân tài, mở mang dân trí, góp phần xây dựng đất nước thịnh trị. Chiến lược “trồng người” được tiên sinh nói lên thật sáng tỏ.

Tóm lại, bằng lời tấu rất thẳng thắn và chân thành, La Sơn Phu Tử Nguyễn Thiếp đã nêu lên mục đích chân chính của việc học và thực trạng tiêu cực của việc học đang hiện hành cùng các phương pháp học tập đúng đắn. Những bài học mà Nguyễn Thiếp mang lại không chỉ có giá trị đối với đất nước trong xã hội phong kiến mà còn bổ ích đối với tất cả chúng ta trong mọi thời đại.

Nguyễn Thiếp (1723 – 1804) tên chữ là Khải Xuyên, hiệu là Lạp Phong Cư Sĩ, được người đương thời gọi một cách kính trọng là La Sơn Phu Tử, quê ở làng Mật Thôn, xã Nguyệt Ao, huyện La Sơn, tỉnh Hà Tĩnh, ông là người “thiên tư sáng suốt, học rộng hiểu sâu”, từng đỗ đạt và ra làm quan dưới triều Lê, nhưng sau đó vì bất bình nên cáo quan về nhà dạy học.

Sau khi lên ngôi vua, Nguyễn Huệ mấy lần viết thư, tha thiết mời Nguyễn Thiếp ra hợp tác với triều Tây Sơn nhưng vì nhiều lý do, ông chưa nhận lời. Ngày 10 tháng 7 niên hiệu Quang Trung năm thứ tư (1791), nhà vua lại viết chiếu thư mời Nguyễn Thiếp vào Phú Xuân hội kiến vì quốc sự có nhiều điều cần bàn nghị. Lần này, La Sơn Phu Tử bằng lòng, ông làm bài tấu nêu ý kiến của mình về ba việc lớn mà bậc quân vương nên làm. Một là bàn về Quân đức (đạo đức của vua): Mong bậc đế vương một lòng tu đức lấy sự học vấn mà tăng thêm tài, bởi sự học mà có đức. Hai là bàn về Dân tâm (lòng dân) : Dân là gốc, gốc vững, nước mới yên. Ba là bàn về Học pháp (phép học). Đoạn trích này là phần thứ ba của bài tấu, nội dung bàn luận về phương pháp học tập. Qua bài tấu dâng lên vua Quang Trung, Nguyễn Thiếp bày tỏ sự quan tâm và chủ kiến của mình về việc chấn chỉnh sự nghiệp giáo dục của quốc gia.

Ở bài tấu này, Nguyễn Thiếp trình bày quan điểm về phép học qua hai luận cứ: Bàn về mục đích của việc học và tác dụng của phép học.

Trong phần mở đầu, La Sơn Phu Tử Nguyễn Thiếp nêu mục đích quan trọng của việc học bằng cách so sánh việc dạy người cũng giống như việc mài đá thành ngọc: Ngọc không mài, không thành đồ vật; người không học, không biết rõ đạo. Ông khẳng định chỉ có học tập thì con người mới trở nên hoàn thiện, tốt đẹp. Học tập là một quy luật tất yếu trong cuộc sống. Kẻ đi học là học luân thường đạo lý để làm người. Vậy đạo là gì? Tác giả giải thích: Đạo là lẽ đối xử hằng ngày giữa mọi người. Kẻ đi học là học điều ấy. Đạo học ngày trước lấy mục đích rèn luyện đạo đức nhân cách là chính. Đó là đạo tam cương (tức là học để hiểu và giữ đúng quan hệ vua tôi, cha con, vợ chồng); đạo ngũ thường (tức là học để hiểu và để sống theo năm đức tính của con người: nhân, nghĩa, lễ, trí, tín). Nói cụ thể ra thì lẽ đối xử chính là mối quan hệ giao tiếp giữa người với người, giữa cá nhân với cộng đồng.

Chính vì thế, Nguyễn Thiếp nhấn mạnh rằng tất cả những điều cần thiết trong cuộc sống đều phải học. Con người không được giáo dục cũng giống như ngọc không mài không sáng: Ngọc bất trắc, bất thành khí.

Tác giả đã dùng câu châm ngôn dễ hiểu để tăng thêm sức mạnh thuyết phục của lí lẽ. Khái niệm đạo vốn trừu tượng, khó hiểu được tác giả giải thích thật ngắn gọn, rõ ràng. Như vậy, mục đích tối thượng của việc học là để làm người.

Quan điểm ấy đề cao mục đích giáo dục đạo đức của việc học. Khẩu hiệu Tiên học lễ, hậu học văn trong nhà trường hôm nay cũng là sự tiếp nối và phát huy mục đích ấy. Điểm cần bổ sung thêm là việc học không chỉ rèn luyện đạo đức mà còn rèn luyện năng lực trí tuệ để con người có sức mạnh xây dựng, cải tạo xã hội trên mọi lĩnh vực văn hóa, kinh tế, khoa học kĩ thuật…

Tác giả lấy mục đích cao cả của việc học để soi chiếu vào thực tế; từ đó phê phán những biểu hiện lệch lạc, sai trái trong đường lối giáo dục đương thời đã gây ra những tác hại to lớn cho quốc gia, dân tộc:

Nước Việt ta, từ khi lập quốc đến giờ, nền chính học đã bị thất truyền. Người ta đua nhau lối học hình thức hòng cầu danh lợi, không còn biết đến tam cương, ngũ thường. Chúa tầm thường, thần nịnh hót. Nước mất, nhà tan đều do những điều tệ hại ấy.

Vậy thế nào là lối học hình thức hòng cầu danh lợi ? Đó là lối học theo kiểu tầm chương trích cú, thuộc lòng từng câu từng chữ mà không hiểu kĩ về nội dung, học theo kiểu hữu danh vô thực. Học chỉ để đi thi, để ra làm quan, được trọng vọng, nhàn nhã và thu nhiều bổng lộc…

Ngày nay, chúng ta gọi lối học đó là học vẹt, học để đối phó, thực chất chẳng tiếp thu được bao nhiêu Kiến thức. Thuộc bài là yếu tố rất cần trong học tập nhưng điều cốt yếu là phải hiểu nội dung, bản chất của vấn đề, từ đó có cách suy nghĩ, cách cảm nhận, sáng tạo riêng.

Sau khi phê phán những biểu hiện tiêu cực trong nhận thức về việc học, Nguyễn Thiếp đã nêu ra quan điểm và phương pháp học tập đúng đắn.

Theo ông, trước tiên việc học phải được phổ biến rộng rãi. Triều đình nên cho dựng thêm trường lớp ở khắp nơi, khuyến khích và tạo điều kiện thuận lợi cho mọi người học tập:

Cúi xin từ nay ban chiếu thư cho thầy trò trường học của phủ, huyện, các trường tư, con cháu các nhà văn võ, thuộc lại ở các trấn cựu triều, đều tùy đâu tiện đấy mà đi học.

Nguyễn Thiếp quả là một bậc hiền tài có tầm nhìn xa trông rộng. Quan điểm hết sức tiến bộ của ông tuy nêu ra cách đây đã hai thế kỉ nhưng nó rất gần gũi với chủ trương xã hội hóa giáo dục của Đảng và Nhà nước ta hiện nay. Chúng ta đang áp dụng ý tưởng sáng suốt của ông vào thực tế giáo dục.

Theo Nguyễn Thiếp, việc học phải được bắt đầu từ những kiến thức có tính chất nền tảng. Học từ dễ đến khó. Khi học bài, người học phải biết tóm tắt nội dung để dễ nhớ, dễ thuộc, bây giờ ta gọi là làm dàn bài và củng cố kiến thức:

Phép dạy, nhất định theo Chu Tử. Lúc đầu học tiểu học để bồi lấy gốc. Tuần tự tiến lên học đến tứ thư, ngũ kinh, chư sử. Học rộng rồi tóm lược cho gọn, theo điều học mà làm.

Mục đích của việc học là để trở thành người có đức, có tài, góp phần hữu ích vào sự nghiệp hưng thịnh đất nước. Muốn học tốt thì phải có phương pháp. Sự học cần phải nâng cao, mở rộng không ngừng, cho nên người học phải biết cách học sao cho có hiệu quả; đặc biệt là học phải đi đôi với hành.

Phương pháp học tập đúng đắn là tuần tự học từ thấp đến cao. Học rộng, nghĩ sâu, rồi tóm lược gọn những điều cơ bản, cốt yếu nhất, rồi ghi nhớ và theo điều học mà làm. Như vậy học không chỉ để cho biết mà chủ yếu là để làm theo cho tốt.

Chủ tịch Hồ Chí Minh đã dạy: Học để hành, học với hành phải đi đôi: Học mà không hành thì học vô ích, hành mà không học thì hành không trôi chảy.

Vậy học là gì? Hành là gì?

Học là hoạt động tiếp thu tri thức của nhân loại đã được đúc kết qua mấy ngàn năm lịch sử. Chúng ta học ở trường qua sự truyền thụ của thầy cô; học ở bạn bè; tự học qua sách vở và thực tế đời sống. Học để làm giàu tri thức, nâng cao trình độ hiểu biết về nhiều mặt để có thể làm chủ bản thân, làm chủ công việc, góp phần hữu ích vào việc xây dựng sự nghiệp riêng và sự nghiệp chung.

Hành là quá trình vận dụng những kiến thức đã học vào thực tế công việc hằng ngày. Ví dụ như người thầy thuốc đem những kiến thức tiếp thu được trong suốt quá trình học tập sáu, bảy năm trời ở trường Đại học để chữa bệnh cho nhân dân. Những kiến trúc sư, kỹ sư xây dựng thiết kế và thi công bao công trình như nhà máy, bệnh viện, trường học, công viên… để phục vụ đời sống con người. Người công nhân trong xưởng máy vận dụng lý thuyết và kinh nghiệm để cải tiến kỹ thuật, nâng cao chất lượng sản phẩm. Người nông dân áp dụng hiểu biết khoa học vào trồng trọt chăn nuôi để có được những vụ mùa bội thu trên đồng ruộng. Đó là hành.

Nguyễn Thiếp khẳng định : Học để hành, có nghĩa là học để làm cho tốt. Thực tế cho thấy có học có hơn. Ông cha chúng ta ngày xưa đã dạy: Bất học, bất tri lý. (Không học thì không biết đâu là lẽ phải). Có học mọi công việc sẽ đạt hiệu quả cao hơn, tốt hơn. Nếu được học những lý thuyết cao siêu mà không biết đem ra vận dụng vào thực tế thì việc học ấy chỉ tốn thời gian, công sức, tiền bạc mà chẳng đem lại kết quả gì.

Ngược lại, hành mà không học thì hành không trôi chảy. Nếu ta chỉ làm việc theo thói quen, theo kinh nghiệm mà không có lý thuyết soi sáng thì công việc sẽ tiến triển rất chậm và chất lượng không cao. Cách làm việc đơn thuần ấy chỉ thích hợp với những công việc chân tay giản đơn, không cần nhiều đến trí tuệ. Còn đối với những công việc phức tạp đòi hỏi khoa học, kĩ thuật thì cung cách ấy đã quá lỗi thời. Cho nên muốn đạt hiệu quả tốt trong công việc, chúng ta bắt buộc phải học, phải được đào tạo chính quy theo từng chuyên ngành và sau đó, trong suốt quá trình làm việc vẫn phải học tập không ngừng bằng mọi cách. Có như vậy mới đáp ứng được yêu cầu ngày càng cao của thời đại.

Trong khi đề xuất ý kiến của mình với nhà vua, Nguyễn Thiếp luôn giữ thái độ chân thành, khiêm tốn qua những từ ngữ như cúi xin, xin chớ bỏ qua… đồng thời, ông cũng thể hiện niềm tin của mình vào sự đúng đắn của những điều tấu trình và vào sự chấp thuận của nhà vua.

Cuối cùng, Nguyễn Thiếp khẳng định tác dụng to lớn và lâu dài của việc học:

Họa may kẻ nhân tài mới lập được công, nhà nước nhờ thế mà vững yên. Đó mới thực là cái đạo ngày nay có quan hệ tới lòng người. Xin chớ bỏ qua.

Đạo học thành thì người tốt nhiều; người tốt nhiều thì triều đình ngay ngắn mà thiên hạ thịnh trị.

Phương pháp học tập tốt sẽ là cơ sở để đào tạo ra người tài đức. Nhiều người có tài có đức sẽ góp phần không nhỏ vào việc hưng thịnh đất nước.

Phép học chân chính mà thành công thì sẽ không còn lối học hình thức hòng cầu danh lợi cá nhân, không còn hiện tượng chúa tầm thường, thần nịnh hót.

Nhiều người học giỏi lại có đạo đức tốt, đỗ đạt làm quan sẽ làm cho triều đình ngay ngắn, xã hội trong sạch. Việc cai trị quốc gia của nhà vua sẽ dễ dàng, thuận lợi hơn, nước nhà sẽ vững vàng, bình ổn.

Nếu nói theo cách hiểu hôm nay của chúng ta thì đạo học chân chính sẽ có sức mạnh cải tạo con người, cải tạo xã hội, thúc đẩy sự phát triển của xã hội theo hướng tích cực.

Đằng sau các lí lẽ bàn về tác dụng của phép học, Nguyễn Thiếp đã đề cao tác dụng của phương pháp học tập đúng đắn, tin tưởng ở sự phục hưng của sự nghiệp giáo dục chân chính, kỳ vọng về tương lai tươi sáng của đất nước.

Ý kiến của Nguyễn Thiếp trùng hợp với ý kiến của nhà bác học Lê Quý Đôn: Nhân tài là nguyên khí quốc gia. Đất nước nhiều nhân tài thì chế độ vững mạnh, quốc gia hưng thịnh.

Nguyễn Thiếp nêu rõ mục đích, tác dụng của việc học là để làm người, học để nâng cao hiểu biết và làm việc ngày một tốt hơn; đóng góp được nhiều hơn cho đất nước. Nếu mọi người hiểu được điều đó thì sẽ nhận ra tác hại ghê gớm của lối học hình thức hòng cầu danh lợi.

Nguyễn Thiếp là người “thiên tư sáng suốt, học rộng hiểu sâu”, từng đỗ đạt làm quan dưới triều Lê, nhưng sau đó từ quan về dạy học, chính vì gắn bó với công việc dạy học cho nên Nguyễn Thiếp hiểu ra mục đích thật sự của việc học. Bàn luận về phép học là một phần trong bản tấu của Nguyễn Thiếp gửi cho vua Quang Trung, trong bài này tác giả nêu rõ quan điểm của mình về mục đích thật sự của việc học đó là đạo đức, là tri thức, góp phần hưng thịnh cho đất nước.

Trong phần nêu vấn đề về sự học, tác giả không bàn đến việc vì sao phải học (nguyên tắc) mà nhấn vào một khía cạnh: học để làm gì ? (mục đích). Là bởi vì: “Ngọc không mài không thành đồ vật; người không học không biết rõ đạo”. Nhưng đạo ấy là gì? Ấy là cái đích của sự học vậy. Theo tác giả thì “Đạo là lẽ đối xử hằng ngày giữa mọi người”. Đạo dạy người ta về những mối quan hệ: hẹp thì với bản thân, trong gia đình, rộng ra là ngoài xã hội. Mối quan hệ ấy trong khuôn khổ của xã hội phong kiến không nằm ngoài khái niệm “tam cương”, “ngũ thường” quen thuộc. Tóm lại, học trước hết là học đạo làm người, học để “lập đức” cho mình, để “lập công” nghĩa là phải cống hiến tài năng cho xã hội. Đó là nền tảng của “chính học”, là cơ sở của một quốc gia nước mạnh dân giàu, xã hội thái bình, thịnh trị. Cách nhìn của tác giả có tầm chiến lược dài lâu vì nó đụng đến sự an nguy của xã tắc. Trong phần giải quyết vấn đề, tác giả nêu lên hai luận điểm lớn để một mặt phê phán lối học sai mục đích hiện thời và một mặt khôi phục lại lối học chân chính mà nguyên tắc và mục tiêu xã hội đã xác định từ xưa.

Ở luận điểm thứ nhất, tác giả nêu lên ba ý: nền chính học đã bị thất truyền, biểu hiện của nó ở sự lệch lạc, tác hại của việc học ấy thật nghiêm trọng đến “nước mất nhà tan”. Trong hệ thống lập luận chặt chẽ theo kết cấu: nguyên nhân – kết quả, đoạn văn nhấn mạnh vào những biểu hiện thật đáng buồn về việc học ngày nay trên hai khía cạnh: người đi học và việc xã hội đánh giá người đỗ đạt (do học tập) ở cả đạo đức và tài năng. Vì mục đích của việc học của người đi học đã sai, cách đánh giá lại không đúng thì hậu quả sẽ dẫn đến thảm họa khôn lường. Cái sai ở người đi học là không chuộng thực đức, thực tài, học không để “lập đức”, “lập công” mà chỉ để “cầu danh lợi”. Cái sai ở đây thật cơ bản: sai về mục đích, nó biến sự học vốn là chân chính, vốn có ý nghĩa xã hội thiêng liêng thành một nấc thang danh vọng tầm thường, học chỉ là cho cá nhân mình, cho gia đình nhỏ bé của mình – vinh thân, phì gia. Mục đích học sai nên cách học cũng sai : không gia công dùi mài kinh sử để nắm lấy tri thức của khoa học, đạo lí của thánh hiền, thay vào đó chỉ là một cách học “hình thức”. Cách học hình thức là cách học máy móc, giáo điều. Học văn có thể thuộc văn mà không hiểu nghĩa của văn, chỉ cốt chép sao cho đúng, thi sao cho đỗ mà thôi. Những người đỗ đạt bằng cách học kiểu ấy lại trở thành trụ cột trong bộ máy điều hành nhà nước thì nguy cơ của nó sẽ dẫn tới đâu? Uy tín của họ, sự tồn tại của họ, do không có thực đức, thực tài đối với bề trên – như vua, chúa – chỉ còn biết luồn lọt, nịnh bợ. Họ là những nịnh thần. Còn về cách đánh giá, người có quyền uy, cầm cân nảy mực trên phạm vi cả nước là vua chúa, mà “chúa trọng nịnh thần”, thì cái thói “hư danh”, “hư vinh” mới mặc sức mà ngang nhiên tồn tại, thậm chí còn hống hách, lộng hành, kéo bè kéo cánh hãm hại lẫn nhau. Cái lô-gíc diễn ra tất yếu không tránh được là nhà tan, nước mất : “Nước mất, nhà tan đều do những điều tệ hại ấy”. Sức hấp dẫn không cưỡng được từ cách lập luận ở chính trong lập luận bởi tính khoa học khách quan của nó.

Ở đây, tóm tắt không có nghĩa chỉ là rút ngắn, mà chính là lựa chọn. Muốn lựa chọn phải có một quan điểm riêng. Ấy là thực học. Nhưng đó mới là một nửa ý nghĩa của thao tác “tóm lược cho gọn”. Nửa ý nghĩa thứ hai của quy trình nhận thức, ở sự thu hoạch tri thức cho bản thân còn quan trọng hơn: “học” để mà “hành”: đây mới là cái đích cuối cùng của việc học. Học nhiều mà chỉ thuộc lòng sách vở, bị động vào sách vở thì dù học đến đâu cũng chỉ là những “con mọt sách” làm sao có thể ứng dụng vào đời sống, phỏng có ích lợi cho ai? Nhà thơ Nguyễn Khuyến cũng đã thấm thía rút ra từ sự học một bài học để dạy dỗ con mình: “Bể học tràn lan là đáng ngại” (Ngày xuân dạy con), phải chăng cũng là sự đồng quan niệm với tác giả Bàn luận về phép học mà chúng ta đang phân tích ở đây? Học như phép học mà Nguyễn Thiếp đề ra mới là có ích. Điều khẳng định này ở dạng vừa hy vọng vừa phân vân: “Hoạ may kẻ nhân tài mới lập được công”. Chính là xuất phát từ một ước mơ tha thiết và dù tha thiết mà sự nghiệp không chắc đã thành, bởi sự học, phép học tuy nói vậy nhưng cũng khó lắm thay! Sự chân thành là phía chủ quan, còn kết quả là thuộc phía khách quan ngoài ý muốn, mà ý muốn ấy cũng là vừa mới bắt đầu. Mặc dầu vậy, dù tâm trạng không ít băn khoăn, mà vẫn rất nhiều tin tưởng. Và kết quả mà tác giả đợi chờ là cái hạt gieo xuống sẽ thành cây, sự học sẽ gặt hái một mùa quả ngọt: “Đạo học thành thì người tốt nhiều; người tốt nhiều thì triều đình ngay ngắn mà thiên hạ thịnh trị”. Kết quả này hoàn toàn đối lập với mục đích học và phép học theo lối “cầu danh lợi” ở trên.

Kế sách mà La Sơn Phu Tử hiến cho vua Quang Trung thật là những lời tâm huyết xuất phát từ quyền lợi của quốc gia, trong sự nghiệp an dân trị quốc. Tầm nhìn ấy có chiều rộng, chiều sâu về một chiến lược lâu dài không phải ngày một ngày hai mà làm được. Vua Quang Trung xem tác giả như một người tri âm mới triều kiến vào Phú Xuân bàn quốc sự. Rất tiếc là thời đại mà Quang Trung mở ra chẳng được bao lâu, do đó chương trình chấn hưng hãy còn dang dở. Dù sao, quan điểm của Nguyễn Thiếp cũng vẫn là những viên gạch vững chắc đầu tiên trong nền tảng lí luận của sự nghiệp giáo dục và đào tạo nước nhà.

“Bàn luận về phép học” là đoạn văn trích từ bài tấu của Nguyễn Thiếp gửi vua Quang Trung vào tháng 8-1791. Lúc bấy giờ Nguyễn Thiếp đang làm Viện trưởng ,viện Sùng Chính, phụ trách việc biên soạn sách và xây dựng Trung đô Phượng Hoàng (Nghệ An), một công việc vô cùng to lớn và hết sức nặng nề.

Bài tấu này thể hiện cái tâm của Nguyễn Thiếp đối với việc chấn hưng nền quốc học, nền giáo dục nước nhà, nhằm mở mang dân trí, đào tạo nhân tài cho đất nước.

Các vấn đề như mục đích việc học, nội dung học tập và phương pháp học tập đã được Nguyễn Thiếp trình bày một cách ngắn gọn và tường tận.

Mở đầu, ông nhắc lại câu cổ ngữ: ”Ngọc không mài, không thành đồ vật; người không học, không biết rõ đạo”. Vậy mục đích học là biết “lẽ đối xử hàng ngày giữa mọi người”. Nói cách khác, học để mở mang trí tuệ và bồi bổ đạo đức. Đạo mà Nguyễn Thiếp nói đến là đạo làm người. Ông than phiền “nền chính học đã bị thất truyền”. Có biết bao tệ lậu đáng chê trách như “đua nhau lối học hình thức hòng cầu danh lợi”, coi thường đạo lý “không cồn biết đến tam cương, ngũ thường”. Nhà dột từ nóc: “Chúa trọng nịnh thần”. Ví dụ, cuối thời Lê – Trịnh, tệ nạn buôn quan bán tước hoành hành, sử sách cho biết: năm 1750, đời vua Lê Hiển Tông, vì Nhà nước thiếu tiền, đã đặt ra lệ thu tiền thông kinh: hễ ai nộp ba quan thì được đi thi hương, không phải khảo hạch. Thành ra những người làm ruộng, đi buôn, ai cũng nộp quyển vào thi, rồi người thì dùng sách, kẻ thì thuê người làm bài; kẻ thuê học mười người không được một (theo Dương Quảng Hàm). Sống trong thời kỳ đen tối, loạn lạc ấy, Nguyễn Thiếp vô cùng đau buồn, thở than: “Nước mất nhà tan đều do những điều tệ hại ấy”. Nguyễn Thiếp đã có một cách nói trầm tĩnh, ôn hòa mà sâu sắc.

Phần thứ hai, tiên sinh nói đến nội dung và phương pháp học tập. Học ở đâu?

– Trường học của phủ, huyện, các trường tư, con cháu các nhà văn võ, thuộc lại “đều tùy đâu tiện đấy mà đi học”. Học cái gì? Tác giả bài tấu cho hay: “Nhất định theo Chu Tử’ (1130-1200) – một học giả đời Nam Tống. Nội dung học tập: “Lúc đầu học tiểu học để bồi lấy gốc. Tuần tự tiến lên học đến Tứ thư, Ngũ kinh, Chư sử”. Điều đó cho thấy, nội dung học tập mà Nguyễn Thiếp nêu lên không có gì mới, ông chưa vượt qua được những hạn chế của lịch sử và của thời đại. Sách Tàu đã mấy nghìn năm vẫn được tôn thờ! Vẫn coi trọng thơ văn, chưa hướng tới khoa học.

Về phương pháp học, ý kiến của Nguyễn Thiếp rất xác đáng và tiến bộ. Coi trọng vấn đề thiết yếu cơ bản: “Học rộng rồi tóm lược cho gọn”. Học phải đi đôi với hành “theo chiếu học mà làm”. Niềm mong ước của ông rất đẹp và chân thành: “Họa may kẻ nhân tài mới lập được công, Nhà nước nhờ thế mà vững yên. Đó mới thực là cái đạo ngày nay có quan hệ tới lòng người. Xin chớ bỏ qua”.

Tiên sinh đã khẳng định tầm quan trọng của đạo học, ý nghĩa to lớn của đạo học: “Đạo học thành thì người tốt nhiều; người tốt nhiều thì triều đình ngay ngắn mà thiên hạ thịnh trị”. Đúng là việc học góp phần đào tạo nhân tài, mở mang dân trí, góp phần xây dựng đất nước thịnh trị. Chiến lược “trồng người” được tiên sinh nói lên thật sáng tỏ.

Phần cuối, Nguyễn Thiếp giãi bày lòng mình. Bài tấu nói về phép học là những lời “thành thật”, chứ không phải “lời nói vu vơ”, ông khiêm tốn và cung kính “cúi mong Hoàng thượng soi xét”.

Nguyễn Thiếp đức trọng tài cao, được người đương thời kính ái gọi là La Sơn phu tử. Tài năng của ông chưa kịp thi thố, thì vua Quang Trung băng hà. Ông đã từ chức và lui về núi cũ rừng xưa ở ẩn. Ông đã qua đời năm 81 tuổi, thanh bạch và thanh cao. Bài tấu “Bàn luận về phép học” với những ý kiến của tiên sinh về mục đích học tập, phương pháp học tập rất đúng đắn tiến bộ, về nội dung học tập, ý kiến của tiên sinh chưa vượt qua được hạn chế của lịch sử và thời đại. Có điều nhiệt tâm của La Sơn phu tử đối với nước, với dân, đối với sự nghiệp trồng người đã để lại nhiều ngưỡng mộ cho hậu thế.

La Sơn Phu Tử Nguyễn Thiếp là một trong những danh nho học rộng tài cao của lịch sử nước ta. Sự nghiệp và sự uyên thâm của ông đã được người đời tôn lại bậc thầy. Dưới sự mời gọi chân thành, tha thiết của vua Quang Trung, La Sơn Phu Tử mới nhận lời ra phò giúp triều đình. Trong quá trình đó ông đã dâng lên nhiều bản tấu đáng chú ý, đặc biệt là bài tấu dâng vào tháng 8/1971 nói về ba việc của một quân vương, trong đó đáng chú ý hơn cả là Bàn về phép học đã đem đến những nhận định đúng đắn, sáng suốt..

Dâng bản tấu này Nguyễn Thiếp nung nấu trong mình mong muốn trấn hưng sự nghiệp học tập của nước nhà, để mở mang dân trí, tăng cường học thuật. Bởi vậy trong phần triển khai vấn đề ông đã viết hết sức logic mạch lạc, về mục đích, nội dung cũng như phương pháp học tập, để từ đó người đọc mà noi theo.

Mở đầu bản tấu, ông dẫn ngay một câu cổ ngữ kinh điển: “Ngọc không mài không thành đồ vật, người không học không biết rõ đạo” . Đạo ở đây chính là con đường học tập đạo đức, cách ứng xử với nhau trong đời sống hàng ngày, nhỏ là phạm vi gia đình, lớn là phạm vi xã hội. Đây cũng chính là cái đích của sự học. Như vậy, đối với La Sơn Phu Tử học trước hết là để làm người, làm một con người sống có đạo đức, sự học ấy không nằm ngoài như “tam cương ngũ thường” vốn có bấy lâu nay. Nhân đó, ông cũng nói lên thực trạng lúc bấy giờ khi “nền chính học đã bị thất truyền” , con người ta đua nhau lối học hình thức cầu danh lợi, chẳng biết đến đạo tam cương ngũ thường. Và ông đã đưa ra những dẫn chứng hết sức tiêu biểu “chúa tầm thường thần nịnh hót” nói lên thực tế đất nước ta dưới đời vua Lê, nạn mua quán bán chức tràn lan, đất nước mục duỗm từ trên xuống dưới,…Và cảnh “Nước mất, nhà tan cũng đều do những điều tệ hại ấy”.

Trước thực trạng đó của nước nhà, La Sơn Phu Tử Nguyễn Thiếp đã đề xuất đến những giải pháp hết sức thuyết phục. Đối với một đất nước hưng thịnh hay không chính là ở hiền tài của nước đó, bởi “Hiền tài là nguyên khí của quốc gia, nguyên khí thịnh thì thế nước rồi lên cao, nguyên khí suy thì thế nước yếu rồi xuống thấp” Cách để tạo ra hiền tài không gì khác chính là trấn hưng sự nghiệp học tập của đất nước. Ông đã đưa ra những nội dung và phương pháp học tập thiết thực, chính xác nhất.

Advertisement

Trước hết trường học ở các phủ huyện sẽ được mở rộng, để con cháu có thể “tùy đâu tiện đấy mà học”. Quan điểm của ông tuy đã cách chúng ta hàng thế kỉ nhưng đọc kĩ vẫn thấy còn giá trị cho đến thời điểm hiện tại. Vậy cách học như thế nào cho chính xác nhất? Theo ông học đầu tiề phải “lúc đầu học tiểu học để bồi lấy gốc”, quả đúng như vậy, chưa có cái căn bản, cái gốc mà chộp giật học ngay lên cao, tất yếu sẽ bị chết yếu. Bởi vậy cần học từ thấp cho đến cao, ban đầu học tứ thứ, ngũ kinh, chư sử.

Phương pháp thứ hai là học rồi tóm lược lại cho gọn. Với vế thứ nhất, để làm được chúng ta cần đọc sâu, đọc kĩ để hiểu bản chất vẫn đề. Chỉ khi hiểu được bản chất thì mới có thể tóm lược lại cho dễ nhớ. Nói đến vấn đề này ta lại thấy một thực trạng đáng buồn hiện nay, học và đọc tràn lan, quá nhiều, khiến việc học không được hiệu quả. Người ta chú trọng số lượng hơn chất lượng, nhưng thực tình lại rất có hại. Đọc ít mà nhớ kĩ, ngấm sâu ấy mới là cách học tốt. Phải biết biến kiến thức của người thành kiến thức của mình, khi ấy sự học mới được coi là thành công.

Phương pháp cuối cùng chính là học phải đi đôi với hành. Tư tưởng giáo dục của ông hết sức hiện đại, tiến bộ. Học chỉ để đó thì chưa phải sự học, học phải biết ứng dụng, vận dụng nó vào thực tiễn cuộc sống. Đấy là lối học tốt nhất, hoàn thiện nhất giúp người ta vừa ghi nhớ, năm sâu kiến thức, vừa đồng thời gợi mở những tri thức mới. Lối học đó khác hoàn toàn với việc học chay, học vẹt cốt chỉ được trong thoáng chốc, không phục vụ lâu dài.

Cuối của văn bản, La Sơn Phu Tử một lần nữa khẳng định: “Đạo học thành thì người tốt nhiều; người tốt nhiều thì triều đình ngay ngắn mà thiên hạ thịnh trị” . Quá cũng chính là kết quả của việc học tập đúng đắn, nghiêm túc. Bài tấu ngắn gọn, kiệm lời mà tràn đầy ý nghĩa. Với lập luận rõ ràng, sắc bén La Sơn Phu Tử Nguyễn Thiếp đã đưa ra mục đích, phương pháp của việc học chân chính. Ý nghĩa của tác phẩm cho đến thời điểm của văn bản cho đến thời điểm hiện tại vẫn còn được giữ nguyên giá trị.

Nguyễn Thiếp (1723-1804) tự là Khải Xuyên, hiệu là Lạp Phong Cư Sĩ, người đương thời kính trọng gọi là La Sơn Phu Tử, quê ở làng Mật Thôn, xã Nguyệt Ao, huyện La Sơn (nay thuộc huyện Đức Thọ), tỉnh Hà Tĩnh. Nguyễn Thiếp là người “thiên tư sáng suốt, học rộng hiểu sâu”, từng đỗ đạt, làm quan dưới triều Lê nhưng sau đó từ quan về dạy học. chính vì gắn bó với công việc dạy học cho nên Nguyễn Thiếp hiểu ra mục đích thật sự của việc học. Có thể nói bài bàn luận về phép học của Nguyễn Thiếp không chỉ để lại cho những người thời địa ấy những bài học quý giá mà còn để lại cho chúng ta những người thế hệ ngày nay và mai sau.

Bàn luận về phép học là một phần trong bản tấu của Nguyễn Thiếp gửi cho vua Quang Trung. Trong bài này tác giả của chúng ta đã nêu rõ quan điểm của mình về mục đích thật sự của việc học đó là đạo đức, là tri thức, để góp phần hưng thịnh cho đất nước.

Mở đầu đoạn trích tác giả nêu lên câu châm ngôn để cho thấy được mục đích chân chính của việc học là gì “Ngọc không mài, không thành đồ vật; người không học”. Theo đó chúng ta sẽ đi tìm hiểu hai luận điểm chính là bàn luận về mục đích của việc học và tác dụng của việc học. Với mục đích của việc học tác giả đưa ra câu nói trên. Đó là cách so sánh vô cùng hay và hấp dẫn. việc học giống như là mài ngọc thành đồ vật vậy, con người không học thì cũng không thể thành người được. Đó là cả một quá trình dài đầy gian khổ và thách thức nhưng mục đích chính mà việc học đặt ra là để hoàn thiện con người. Sự hoàn thiện đó bao gồm trước hết là đạo đức và sau đó là tri thức.

Việc học vốn mang một ý nghĩa cao quý : “Biết rõ đạo”. Tức là học để biết cách làm người, học để sống tốt, cư xử đúng chuẩn mực. “Ngọc không mài, không thành đồ vật“, con người không học hành, tu dưỡng thì chẳng thành được con người có khả năng làm việc tốt, giúp ích cho đời. Dưới thể chế phong kiến theo Nho giáo xưa, học hành, thi cử còn là con đường trực tiếp dẫn đến chốn quan trường, là cơ hội để một đấng nam nhi góp sức mình cho đất nước. Như vậy có thể thấy việc học rất quan trọng đặc biệt là trong xã hội phong kiến xưa. Học tập là một quy luật tất yếu trong cuộc sống. Kẻ đi học là học luân thường đạo lí để làm người. Đạo học ngày trước lấy rèn luyện đạo đức làm chính, đó là những cách cư xử trong tam cương ngũ thường ngày xưa.

Chính vì thế tác giả nhấn mạnh vào việc học là rất cần thiết. Con người mà không học thì giống như ngọc không mài không thành đồ vật và không thể thành người hoàn thiện được. những truyền thống quý báu như Tiên học lễ hậu học văn được kế thừa từ những bàn luận của Nguyễn Thiếp. Đặc biệt tác giả đã lấy việc học để chứng minh trong thực tế, từ đó nêu lên những sai trái tiêu cực trong đường lối giáo dục đương thời sẽ gây ra những hậu to lớn cho toàn dân tộc. tác giả nêu lên nền học chính của chúng ta đã bị mất từ lâu thay vào đó là lối học mau hòng danh hợi. Như vậy thì chúa tầm thường mà thần thì nịnh hót, nước mất nhà tan là lẽ đương nhiên. Học mà chỉ chú ý đến bổng lộc không chú ý đến nội dung của cái mình đang học thì làm sao có thể tiếp thu được những kiến thức trong nội dung ấy.

Không chỉ đưa mục đích chân chính cũng như tác dụng thực sự của việc học đối với hưng thịnh đất nước mà Nguyễn Thiếp còn khuyên vua Quang Trung mở hình thức học phổ biến hơn. Làm thế nào để tất cả mọi người đều ý thức được việc học và có thể học ở bất kì đâu : “Thầy trò của phủ, huyện, các trường tư, con cháu các nhà văn võ, thuộc lại ở các trấn cựu triều, đều tùy đâu tiện đấy mà đi học”.

Về trình tự học cũng như ta học chứ vậy, phải đi từ thấp tới cao từ nhỏ tới lớn. phải biết được những chữ cái có trong bảng thì mới mong học được thành những chữ ghép vào với nhau “Lúc đầu học tiểu học để bồi lấy gốc. Tuần tự tiến lên học đến tứ thư, ngũ kinh, chư sử. Học rộng rồi tóm lược cho gọn, theo điều học mà làm”. Có thể hiểu rằng muốn học rộng thì trước tiên phải học được những cái cơ sở cái nền tảng thì mới có thể mong làm cho kiến thức của mình sâu rộng và giúp ích cho đất nước được. không những thế tác giả chỉ ra việc học và việc hành phải đi đôi gắn kết với nhau, học trước rồi hành sau không thể bỏ được nếu muốn học thành tài.

Cuối cùng tác giả khẳng định tác dụng to lớn và lâu dài của việc học đối với mỗi cá nhân và cho toàn đất nước. Họa may kẻ nhân tài mới lập được công, nhà nước nhờ thế mà vững yên. Đó mới thực là cái đạo ngày nay có quan hệ tới lòng người. Xin chớ bỏ qua. Đạo học thành thì người tốt nhiều; người tốt nhiều thì triều đình ngay ngắn mà thiên hạ thịnh trị. Phương pháp học tập tốt sẽ là tiền đề để tạo ra những người có đức có tài giúp cho đất nước hưng thịnh. Người học giỏi mà có đạo đức thì cũng góp phần làm cho đất nước hưng thịnh.

Như vậy có thể thấy Nguyễn Thiếp đã đem đến cho chúng ta một tầm hiểu biết mới về phép học. Mặc dù là bản tấu nhưng chúng ta cũng thấy được tác giả luôn giữ thái độ chân thành cung kính với vua Quang Trung chứ không phải lên mặt. qua đây chúng ta thấy Nguyễn Thiếp là một vị quân thần không những giỏi có tài mà còn có đức, biết đi trước thời đại bỏ qua những trào lưu học lấy bổng lộc để thấy rõ được những tác dụng chân chính của việc học. Đặc biệt sau bài này chúng ta có thể áp dụng vào sự nghiệp học hành ngày nay.

Từ xưa tới nay, mối tương quan chặt chẽ giữa học và hành đã được nhiều người quan tâm, bàn luận, Học quan trọng hơn hành hay hành quan trọng hơn học? La Sơn Phu Tử Nguyễn Thiếp đã góp một ý kiến xác đáng về vấn đề này trong bài Bàn luận về phép học: lúc đầu học tiểu học để bồi lấy gốc, tuần tự tiến lên học đến tứ thư, ngũ kinh, chư sử. Học rộng rồi tóm lược cho gọn, theo điều học mà làm. Họa may kẻ nhân tài mới lập được công, nhà nước nhờ thế mà vững yên.Ý kiến đó của ông là sự đúc kết kinh nghiệm sau bao năm nghiền ngẫm và áp dụng trong thực tế phương pháp dạy và học của Chu Tử, một bậc thầy của Nho giáo đời Tống bên Trung Quốc.

Học: là tiếp thu kiến thức, hiểu biết mới từ sách vở, từ cuộc sống xung quanh làm giàu thêm vốn tri thức của mỗi cá nhân. Chúng ta có thể học ở trường qua sự truyền thụ của thầy cô, học ở bạn bè; tự học qua sách vở và học ở thực tế đời sống. Học để làm giàu tri thức, nâng cao trình độ hiểu biết. Học để có thể làm chủ bản thân, làm chủ công việc của mình và góp phần hữu ích vào sự nghiệp chung của đất nước, dân lộc… Trước hết phải học từ thấp đến cao. Khi học phải biết tóm lược kiến thức cơ bản để dễ nhớ, dễ vận dụng. Theo cách nói bây giờ là ta phải biết sơ đồ hóa kiến thức, biết tóm tắt nội dung văn bản đã học.

Hành: là quá trình vận dụng những kiến thức đã học vào những công việc hằng ngày. Ví dụ như một bác sĩ được những kiến thức tiếp thu được trong suốt quá trình đào tạo sáu, bảy năm ở trường đại học để vận dụng vào việc chữa bệnh cho nhân dân. Những kiến trúc sư, kĩ sư xây dựng đem kiến thức đã học để thiết kế và thi công bao công trình như nhà máy, bệnh viện, trường học, công viên… để phục vụ đời sống con người.Anh công nhân trong xưởng máy vận dụng lí thuyết để cải tiến kĩ thuật, nâng cao chất lượng sản phẩm. Chị nông dân áp dụng khoa học vào đồng ruộng để có được những vụ mùa bội thu… Học sinh vận dụng những điều thầy dạy để làm một bài toán, một bài văn… đó là hành.

Học đi đôi với hành là việc học lí thuyết và thực hành đều quan trọng và cần thiết như nhau, song song với nhau. Nếu học được lí thuyết dù cao siêu đến đâu chăng nữa mà không đem ra vận dụng vào thực tế thì việc học ấy chỉ tốn thời gian, công sức, tiền bạc mà thôi. Ngược lại, hành mà không học thì hành không trôi chảy, nhầm lẫn thậm chí dẫn tới sai sót.

Mối quan hệ giữa học và hành: Chủ tịch Hồ Chí Minh nói “Học phải đi đôi với hành. Học mà không hành thì vô ích. Hành mà không học thì hành không trôi chảy.Việc thực hành có tác dụng củng cố kiến thức, khắc sâu những điều đã học. Người có học mà không biết ứng dụng những điều đã học vào thực tế thì việc học ấy trở thành vô ích. Sau mỗi bài học lí thuyết là bài bài tập để củng cố, sau mỗi tiết thí nghiệm thực hành là kiến thức đã học được khắc sâu hơn. Nếu không có những tiết bài tập và thí nghiệm thì những điều chúng ta đã học sẽ trở thành mớ lý thuyết suông không có tác dụng gì. Những kiến thức đã học luôn có tác dụng định hướng, dẫn dắt để việc thực hành được tốt hơn. Người thực hành mà không có sự dẫn dắt của học vấn thì khó có hy vọng đạt được mục đích, chẳng khác gì một người đi trong bóng đêm mà không có ánh sáng của ngọn đuốc soi đường.

Trong học tập, học sinh muốn học tốt, đạt kết quả cao không những phải nắm vững bài học mà còn chăm chỉ luyện tập, rèn luyện kĩ năng làm bài thành thạo, xử lí các vấn đề, liên kết tri thức. Trong công việc, nếu ta chỉ làm theo thói quen, kinh nghiệm, vận dụng tri thức hạn hẹp mà không có lí thuyết soi sáng thì hiệu quả công việc không có, có thể dẫn đến sai lầm, gây ra thiệt hại lớn. Làm theo thói quen, kinh nghiệm, bí quyết truyền đời chỉ thích hợp với những công việc đơn giản, ít biến đổi, không cần nhiều đến trí tuệ. Ngày nay, nền khoa học kĩ thuật phát triển cao, lượng tri thức tăng nhanh đòi hỏi con người không những không ngừng học tập nâng cao tri thức thức, kiện toàn bản thân mà còn phải biết hợp tác, liên kết, thực hành thực tế nhiều lần để thành công trong công việc. Có làm được như vậy mới đáp ứng được yêu cầu của thời đại.

Nếu học tập có vai trò tích lũy tri thức thì thực hành sẽ hoàn chỉnh, khẳng định tri thức ấy. Người giỏi lí thuyết mà không biết vận dụng thực hành chỉ giỏi nói suông, khoe khoang, sáo rỗng, thường hay gặp trở ngại, thất bại trong cuộc sống. Người giàu có tri thức, học tập bài bản, thực hành kiện toàn kĩ năng thường khiêm tốn, cẩn thận, tỉ mỉ trong công việc, dễ thành công hơn người khác. Mỗi sai lầm có thể sẽ phải trả giá bằng một sự nghiệp, đôi khi là cả tính mệnh, thậm chí còn làm ảnh hưởng đến nhiều người khác. Bởi thế, để tránh thất bại, chúng ta cần phải biết kết hợp chặt chẽ học và hành.

Lấy việc học làm nhiệm vụ bồi dưỡng tri thức nền tảng. Lấy thực hành làm nhiệm vụ thực chứng, kiểm chứng lí thuyết, hoàn thiện bản thân hướng đến tính hiệu quả trong công việc. Dĩ nhiên, đó là một nhiệm vụ khó khăn, không dễ gì hoàn thành. Thế nhưng, nếu chúng ta biết nỗ lực, phấn đấu trong thời gian dài, không ngại vất vả, gian nan thì điều đó lại hết sức dễ dàng. Học và hành là hai mặt của một vấn đề. Không thể hành động một chiều mà có thể đem lại kết quả tốt đẹp. Bởi thế, không được xem nhẹ mặt nào.

Khẳng định học phải đi đôi với hành: Thực tế cho thấy ngày nay, phương châm học đi đôi với hành là hoàn toàn đúng. Những kiến thức mà chúng ta tiếp thu được từ nhà trường, sách vở… phải được áp dụng vào thực tiễn cuộc sống để sáng tạo ra những thành quả vật chất, tinh thần phục vụ con người. Có một phương pháp học tập tốt và đúng đắn, kết hợp với những thao tác thực hành bài bản, chắc chắn kết quả học tập sẽ được nâng cao.

Cập nhật thông tin chi tiết về Văn Mẫu Lớp 9: Bàn Về Đức Tính Siêng Năng Cần Cù (6 Mẫu) Nghị Luận Về Tư Tưởng Đạo Lý trên website Yvju.edu.vn. Hy vọng nội dung bài viết sẽ đáp ứng được nhu cầu của bạn, chúng tôi sẽ thường xuyên cập nhật mới nội dung để bạn nhận được thông tin nhanh chóng và chính xác nhất. Chúc bạn một ngày tốt lành!