Xu Hướng 10/2023 # Văn Mẫu Lớp 8: Thuyết Minh Về Chùa Tây Phương (4 Mẫu) Thuyết Minh Danh Lam Thắng Cảnh Lớp 8 # Top 16 Xem Nhiều | Yvju.edu.vn

Xu Hướng 10/2023 # Văn Mẫu Lớp 8: Thuyết Minh Về Chùa Tây Phương (4 Mẫu) Thuyết Minh Danh Lam Thắng Cảnh Lớp 8 # Top 16 Xem Nhiều

Bạn đang xem bài viết Văn Mẫu Lớp 8: Thuyết Minh Về Chùa Tây Phương (4 Mẫu) Thuyết Minh Danh Lam Thắng Cảnh Lớp 8 được cập nhật mới nhất tháng 10 năm 2023 trên website Yvju.edu.vn. Hy vọng những thông tin mà chúng tôi đã chia sẻ là hữu ích với bạn. Nếu nội dung hay, ý nghĩa bạn hãy chia sẻ với bạn bè của mình và luôn theo dõi, ủng hộ chúng tôi để cập nhật những thông tin mới nhất.

Chùa Tây Phương là một trong những ngôi chùa cổ ở Hà Nội, được xây được hơn 300 năm. Ngôi chùa có diện tích khá rộng, cây xanh bao trùm trù phú, đậm sắc dân tộc cổ xưa, hoang sơ mộc mạc. Vậy mời các em cùng theo dõi bài viết để ngày càng học tốt môn Văn 8:

Thuyết minh về chùa Tây Phương – Mẫu 1

Nói đến Hà Nội, người ta thường nghĩ ngay đến những danh lam thắng cảnh nổi tiếng nơi đây như: Văn Miếu Quốc Tử Giám, hồ Hoàn Kiếm, đền Ngọc Sơn, chùa Trấn Quốc,… và chắc chắn không ai không nhắc tới ngôi chùa linh thiêng nhất, được xếp vào di tích quốc gia đặc biệt. Đó chính là chùa Tây Phương.

Chùa Tây Phương thuộc xã Thạch Xá, huyện Thạch Thất, thành phố Hà Nội. Tương truyền, chùa được xây dựng vào thế kỉ VI. Người xưa kể lại rằng vào những năm 324 – 326 có niên hiệu Hàm Hòa thời Đông Tấn Cát là một chức quan ở huyện Giao Châu nghe tin trên núi Cát Lậu có Chu Sa Đỏ, muốn tìm để làm thành thuốc trường sinh nên ông đã cùng nhân dân lập nên ngôi chùa nhỏ để thờ tự. Trải qua các cuộc chiến tranh và sự bào mòn của thời gian chùa đã bị tàn phá nặng nề. Vào năm 1794 ở thời Tây Sơn chùa đã được đại tu và có tên là chùa Tây Phương được biết tên chữ là Sùng Phúc Tự. Người dân gọi là chùa Tây.

Chùa Tây Phương nằm trên đỉnh núi Câu Lậu (núi Tây Phương) cao chừng 50m. Núi Câu Lậu được ví như con trâu đầu đàn quay đầu xuống dòng sông Tích uống nước. Vì nơi đây có 9 ngọn núi trông xa tựa như một đàn trâu. Qua cổng Tam Quan, chúng ta phải bước qua 237 bậc làm bằng đá ong thì mới tới chùa. Chùa được xây dựng dựa trên kiến trúc mặt bằng chữ tam; có 3 tòa nhà song song là Hạ – Trung – Thượng; tường bao quanh chùa và được xây kín, liền tạo thành kết cấu viền chữ còng. Kiến trúc chùa đã trở thành điển hình của các chùa ở miền Bắc với hai tầng mái giấu thiềm, lợp ngói mũi hài, các góc mái đao vươn lên cong vút, bên trên có gắn tứ linh thú (bốn con vật linh thiêng). Chùa có 64 pho tượng, phần nhiều được làm bằng gỗ mít. Trong đó có 18 tượng La Hán và kiến trúc đặc sắc nhất là pho tượng phật bà Quan Âm nghìn mắt, nghìn tay. Cửa sổ trong chùa được chạm khắc hình tròn, mang ý nghĩa “sắc sắc không không”. Bên trong có nóc mái, rui mè đều có mông ô vuông được trang trí tô màu mô phỏng áo Cà Sa nhà Phật. Chùa có một chiếc chuông nặng tới 200kg. Cũng nhờ những nghệ thuật đặc sắc này mà vào ngày 24/04/1962 chùa Tây Phương đã được công nhận và xếp hạng là di tích lịch sử quốc gia.

Tượng phật ở đây được đánh giá rất cao. Đó là những kiệt tác xuất sắc của các nghệ nhân xa xưa. Viết về các vị La Hán ở chùa Tây Phương, Huy Cận có bài thơ rất nổi tiếng:

Hình tượng La-hán trong bài thơ rất mới lạ. “Khi đọc bài thơ Các vị La-hán chùa Tây Phương của Huy Cận, một nhà nghiên cứu văn học cho rằng: Nhà thơ vẽ ra những hình vẽ bên ngoài chủ yếu là để thể hiện nội tâm của những vị A-la-hán, mà cũng chính là nội tâm đau đớn, quằn quại, vật vã, đầy đau khổ, của những con người nơi trần thế…”. Các pho tượng là hiện thân của cuộc sống nghèo nàn, cực khổ mà nhân dân ta phải chịu đựng ở thế kỷ XVIII. Phật bà Quan Âm nghìn mắt nghìn tay là nghệ thuật đặc sắc nhất, là phật bà đại từ đại bi, luôn quan tâm, lắng nghe âm thanh khổ nạn của chúng sinh rồi hiện phép thần thông cứu giúp.

Là một danh lam thắng cảnh nổi tiếng nên chùa Tây được rất nhiều du khách trong và ngoài nước tới tham quan. Đặc biệt là vào những ngày tết hay những ngày lễ hội vào tháng ba âm lịch hàng năm thì đông đảo nhân dân và du khách chen lấn nhau lên chùa tạo ra một không khí náo nhiệt, một khung cảnh nhộn nhịp, đông vui, tấp nập. Du khách đến nơi đây chủ yếu để cầu bình an cho gia đình, tham quan vẻ đẹp của ngôi chùa. Chùa Tây Phương trở thành nơi phát triển kinh tế cho người dân địa phương, là niềm tự hào của quốc gia chúng ta. Tôi tin rằng ngôi chùa này sẽ càng ngày nhận được nhiều sự quan tâm, chú ý của du khách trong và ngoài nước.

Thật tự hào vì nơi đây có danh lam thắng cảnh tuyệt vời như vậy. Chúng ta hãy bảo vệ giữ gìn những nét đẹp văn hóa, điêu khắc đặc trưng của quê hương mình.

Thuyết minh về chùa Tây Phương – Mẫu 2

Advertisement

Núi Câu Lậu – xã Thạch Xá – huyện Thạch Thất – thành phố Hà Nội – Nơi có di tích lịch sử lớn của nước ta đó là danh lam thắng cảnh chùa Tây Phương. Đến bây giờ ngôi chùa vẫn tồn tại trên đất Hà Nội ta.

Chùa Tây Phương nằm trên ngọn núi Câu Lậu, cao chót vót, bao phủ xung quanh là cây xanh. Ngôi chùa có diện tích khá rộng, cảnh tượng cây xanh bao vây trù phú đậm sắc dân tộc cổ xưa, hoang sơ mộc mạc. Cảnh thiên nhiên hùng vĩ với lối kiến trúc thiêng liêng mà líu lo tiếng chim hót. Tạo nên một bức tranh đẹp vô cùng. Ai ai cũng có thể đến nơi đây bằng bất kì phương tiện đường bộ nào nhưng muốn lên đến chùa thì phải đi bộ bằng chính đôi chân của mình.

Từ xưa, vào thời Mạc ngôi chùa đã được trùng tu lại theo nền cũ của cha anh xây trước để lại. Năm 1554, chùa lại được trùng tu lại cho đẹp hơn và đậm sắc dân tộc Việt Nam hơn. Năm 1632 thì chùa lại được xây dựng thêm thượng điện ba gian, hậu cung cùng hành lang 20 gian. Và vào năm 1660 vào thời Tây Sơn, chùa được Tây Đô Vương Trịnh Lạc tu sửa lại và lấy tên là “Tây Phương cổ tự” – Một cái tên truyền thống và đẹp đẽ. Nhưng nhờ cái tên đó mà giờ đây nó vẫn còn tồn tại mà không hề qua một lần tu sửa nào khác. Kiến trúc độc đáo, nguyên liệu xây dựng vững chắc, lưu giữ bền vững đến bây giờ. Giờ đây, danh lam thắng cảnh chùa Tây Phương đã trở thành một di tích lịch sử của Việt Nam.

Chúng ta đi lên 239 bậc đá ong thì đến đỉnh núi và cổng chùa, chính điện và hậu cung. Mỗi nếp chùa có hai tầng mái, tường được xây bằng gạch Bát Tràng nung đỏ, để trần tạo nên vẻ hoang sơ, mộc mạc. Các cột gỗ đều được kê trên đá tảng xanh, trong khắc hình cánh sen. Mái chùa Tây Phương cũng rất đặc biệt, có những góc mái cong như con rồng uốn lượn. Mái bên trên in hình lá đề, lớp dưới lót mái vuông sơn ngũ sắc như màu áo cà sa. Xung quanh diềm mái của ba tòa nhà đều trạm trổ tinh tế, các đầu mái đao cũng bằng đất nung đỏ nổi lên hình hoa lá, rồng bay, giàu sức truyền cảm. Nhìn từ xa ta thấy danh lam thắng cảnh chùa Tây Phương như một ngọn núi um tùm xanh lá cây cỏ nhưng nổi bật lên trên ngọn núi đó là mái chùa cong cong mà như cổ xưa trù phú.

Chùa nổi tiếng với rất nhiều pho tượng, ngôi tượng thần thánh, vị La Hán và Phật đều được tạc bằng gỗ và được sơn son thiếp vàng làm cho bức tượng càng tôn thêm vẻ uy nghi. Có những pho tượng cao hơn người như pho Kim Cương, Hộ pháp, cao 3m, trang nghiêm, phúc hậu, phần lớn chúng được tạc từ thế kỉ XVII, ngoài ra còn có cả những tác phẩm ở giữa thế kỉ XIV. Đặc biệt hơn cả là 18 vị La Hán to bằng người thật trong các tư thế: ngồi, đứng…Mỗi vị thể hiện một nỗi khổ, tính cách khác nhau, khá sinh động và ít thấy trong điêu khắc Việt Nam. Đó là hình tượng của những con người đắc đạo mà lòng vẫn trầm ngâm suy nghĩ về nỗi khổ của chúng sinh.

Danh lam thắng cảnh Chùa Tây Phương không chỉ nổi tiếng vì nguồn gốc lịch sử lâu đời mà còn nổi tiếng là khu du lịch thu hút các du khách thập phương gần xa, trong và ngoài nước về du lịch và lễ Phật. Với lối kiến trúc cổ lâu đời được lưu giữ đã qua bao thế kỉ, sự cổ kính đã được nhiều người yêu thích. Vào ngày 06-3 Âm lịch hàng năm là ngày Hội chính của Chùa, các du khách khắp nơi đổ về đây đi trẩy hội, lễ phật trốn linh thiêng. Vừa nổi tiếng, vừa mang đậm bản sắc dân tộc và ý nghĩa lịch sử nên vào năm 1962, nơi đây đã được Bộ văn hóa công nhận là di tích văn hóa cấp Quốc gia.

Thuyết minh về chùa Tây Phương – Mẫu 3

Chắc hẳn khi nhắc đến chùa Tây Phương ai trong chúng ta cũng sẽ nhớ đến một nơi được coi là trốn linh thiêng của Hà Nội. Một ngôi chùa mang giá trị nghệ thuật điêu khắc độc đáo và là nơi lưu giữ nhiều pho tượng phật có giá trị. Đó là danh lam thắng cảnh chùa Tây Phương.

Chùa nằm trên một khu vực có cảnh trí thanh tao, ngự trên đỉnh đồi Câu Lậu thuộc xã Thạch xá – huyện Thạch Thất. Chùa được tọa lạc trên đỉnh núi cao 50m, cách Hà Nội khoảng 37km về phía Tây. Chùa được xây dựng vào năm Giáp Dần mang tên “Tây Phương cổ tự”

Cổng chùa dài 162m với 239 bậc đá ong. Chùa có 3 nếp nhà song song theo lối kiến trúc kiểu chữ Tam gồm Chùa Hạ, chùa Trung, chùa Thượng tọa thành một quần thể uy nghi vững trãi. Chùa được lợp 2 lớp ngói và trạm trổ tinh tế, tỉ mỉ. Tường được xây bằng gạch Bát Tràng nung đỏ, để trần kết hợp với các cửa sổ hình tròn và các cột gỗ kê trên tảng đá xanh khắc hình cánh sen.

Chùa được trùng tu nhiều lần vào các thế kỉ XVI, XVII, XVIII với cái dấu mốc ghi lại tới nay. Năm 1554 chùa được xây dựng lại trên nền chùa cũ. Năm 1632 chùa xây dựng thượng điện ba gian và hậu cung cùng hành lang 20 gian. Năm 1660, Tây Đô Vương Trịnh Lạc cho xây dựng lại chùa mới. Đến năm 1794 dưới thời nhà Tây Sơn, chùa được trùng tu và có tên mới là “Tây Phương cổ tự” đồng thời có đúc một quả chuông nặng 200kg.

Danh lam thắng cảnh chùa Tây Phương không chỉ là nơi nổi tiếng về kiến trúc và điêu khắc bậc nhất Việt Nam, mà chùa còn được coi là bảo tàng tượng phật của Việt Nam. Những pho tượng ở chùa được coi là những kiệt tác hiếm có của nghệ thuật điêu khắc tôn giáo. Theo những tài liệu cũ thì nguồn gốc của những pho tượng của chùa Tây Phương chính là hiện thực của cuộc sống hàng ngày, nghèo nàn, khổ cực, đặc biệt là nạn đói mà nhân dân phải chịu ở thế kỉ 18. Chùa có 72 pho tượng được đánh giá vào loại đệ nhất về nghệ thuật tạc cổ của nước ta, tạc bằng gỗ mít sơn son, thiếp vàng, trong đó có 18 pho tượng thuộc nhóm La hán. Các vị La hán ấy là hình tượng được các nghệ nhân điêu khắc mượn sự tích tu hành của các vị đệ tử Phật nhằm mô tả những con người sống trong xã hội đương thời. Dưới bàn tay tài hoa của các nghệ nhân dân gian các pho tượng hiện ra mỗi người một vẻ, một phong cách khác nhau. Với những đường nét hình khối vô cùng sinh động. Mỗi pho tượng ở đây có sự hài hòa nội tâm và ngoại hình mang biểu tượng một nỗi đau khổ khôn nguôi của con người: buồn vui lẫn lộn, suy tư, giả suy, thiếu ngủ…Nét mặt khắc khổ từ bi, những nếp nhăn trên vầng trán, từng mạch máu đường gân, thớ thịt, khớp xương, con mắt, đôi môi đến trang phục được bàn tay các nghệ nhân khắc họa diệu kỳ.

Ai đến chùa đều có ấn tượng sâu sắc, vì thế mà nhà thơ Huy Cận đã sáng tác bài thơ “Các vị La Hán chùa Tây Phương” khi ông có dịp về thăm ngôi chùa này:

Hàng năm cứ vào dịp Tết đến xuân về thì danh lam thắng cảnh chùa Tây Phương lại là nơi du lịch, lễ phật của nhiều phật tử, du khách gần xa, trong và ngoài nước đến tham quan.

Trải qua bao thời gian, biến đổi lịch sử, những pho tượng ở chùa Tây Phương đã để lại trong lòng mỗi người, mỗi du khách những ấn tượng sâu đậm về nền nghệ thuật Việt Nam, với giá trị độc đáo về nghệ thuật và Phật học. Năm 1962, chùa vinh dự được Bộ Văn hóa công nhận là Di tích lịch sử văn hóa Quốc gia. Vì vậy chúng ta cần phải bảo vệ, trân trọng và giữ gìn nét đẹp văn hóa đó. Ngôi chùa không chỉ là một danh lam thắng cảnh mà còn mang một ý nghĩa thiêng liêng.

Thuyết minh về chùa Tây Phương – Mẫu 4

Thạch Thất quê hương em không chỉ nổi tiếng với những làng nghề truyền thống thủ công mỹ nghệ mà nơi đây còn nổi tiếng bởi di tích văn hóa đã trải qua nhiều thế kỷ. Đó chính là danh lam thắng cảnh chùa Tây Phương cổ kính.

Chùa Tây Phương được xây từ rất lâu đời theo tài liệu ghi chép lại vào năm Giáp Dần thời Mạc Phúc Nguyên. Chùa tọa lạc trên ngọn núi cao có tên là Câu Lậu thuộc xã Thạch Xá – huyện Thạch Thất – Thành phố Hà Nội. Đến năm 1794 dưới thời Tây Sơn chùa đã được đại tu hoàn toàn với tên mới là “Tây Phương cổ tự” chùa mang hình dáng kiến trúc còn lại như ngày nay.

Từ chân núi để lên tới cổng chùa chính phải trải qua 239 bậc được lát bằng đá ong. Đó là một loại chất liệu mang nét đặc trưng của vùng xứ Đoài. Khi lên đến cổng chùa du khách không khỏi ngưỡng mộ trước vẻ đẹp kiến trúc thể hiện đầy tài năng sáng tạo của cha ông xưa. Chùa gồm ba nếp nhà song song đó chính là bái đường, chính điện và hậu cung. Tường xây hoàn toàn bằng gạch bát tràng nung đỏ để trần, điểm những cửa sổ tròn với biểu tượng sắc không. Các cột gỗ trong chùa đều được kê trên đá tảng xanh có khắc hình cánh sen.Mái ngói của nhà chùa được lợp hai lớp, mái trên có múi in nổi hình lá đề lớp dưới là mái lót hình vuông sơn ngũ sắc như màu cà sa xếp dưới những hàng rui gỗ làm thành ô vuông đều đặn, xung quanh diềm mái của ba tòa nhà đều chạm trổ tinh tế theo hình thức lá triện cuốn. Trên mái gắn nhiều con giống bằng đất nung. Các đầu mái đao cũng bằng đất nung đường nét nổi lên hình hoa lá rồng phương giàu sức khái quát và khả năng truyền cảm. Toàn bộ ngôi chùa toát lên vẻ hoành tráng và phóng khoáng.

Nơi đây còn tập trung những kiệt tác hiếm có của nghệ thuật điêu khắc tôn giáo bao gồm khảm, trổ, phù, điêu và tạc tượng. Khắp chùa chỗ nào có gỗ là có trạm trổ theo đề tài trang trí quen thuộc của dân tộc Việt Nam với các hình như: lá dâu, lá đề, hoa sen, hoa cúc, rồng, phượng những đường nét chạm trổ vô cùng tinh xảo được tạo ra dưới bàn tay tài hoa của các nghệ nhân làng mộc nổi tiếng xứ Đoàn. Trong chùa có 70 pho tượng phật cùng các phù điêu có mặt ở khắp mọi nơi, các tượng được tạc bằng gỗ mít sơn son thiếp vàng. Phần lớn đều có niên đại cuối thế kỉ XVIII và giữa thế kỉ XIX. Đặc biệt 18 vị la Hán với nhiều hình dáng khác nhau, kẻ đứng người ngồi mỗi vị một dáng vẻ khác nhau nhằm phản ánh thực tại cuộc sống trần gian với kiếp luân hồi của người đời.

Lên đỉnh chùa cảnh đẹp và yên tĩnh làm cho lòng người nhẹ nhõm như đã bỏ lại cõi nhân gian ồn ào bụi bặm đầy bon chen. Với kiến trúc độc đáo, giao thông thuận tiện danh lam thắng cảnh chùa Tây Phương đang là điểm du lịch hấp dẫn cho du khách thập phương thưởng ngoạn. Hàng năm, Lễ hội chùa Tây Phương thường tổ chức ngày chính thức vào ngày mùng 6 tháng 3 Âm lịch.

Trải qua bao biến đổi của lịch sử danh lam thắng cảnh chùa Tây Phương đã để lại trong lòng mỗi người khách những ấn tượng sâu đậm về nền nghệ thuật cổ Việt Nam. Chùa Tây Phương đã được Bộ văn hóa công nhận là di tích lịch sử văn hóa Quốc gia năm 1962.

Thuyết Minh Về Danh Lam Thắng Cảnh Ở Kiên Giang ❤️️15 Bài

Thuyết Minh Về Danh Lam Thắng Cảnh Ở Kiên Giang ❤️️ 15 Bài ✅ Chia Sẻ Tuyển Tập Văn Đặc Sắc Với Cách Viết Sinh Động Và Giàu Hình Ảnh. 

Cùng tham khảo mẫu Dàn Ý Thuyết Minh Về Danh Lam Thắng Cảnh Ở Kiên Giang chi tiết sau đây để triển khai bài văn logic và đầy đủ ý nhất.

Mở bài: Giới thiệu chung về danh lam thắng cảnh – Phú Quốc

Thân bài:

Giới thiệu về vị trí địa lí.

Bãi Dài là viên ngọc quý của Phú Quốc, dài 15km chạy dọc bờ biển Tây Bắc của đảo từ Gành Dầu đến Cửa Cạn. Từ Bãi Dài có thể nhìn ra 2 hòn đảo nhỏ xinh đẹp là Hòn Dăm và Đồi Mồi. Nhờ được vịnh bao bọc, Bãi Dài được hưởng những con sóng dịu êm, nhẹ nhàng. Bãi đón gió Tây Nam, có nhiều sóng gió vào mùa hè từ tháng 5-10.

Thuyết minh về từng bộ phận của thắng cảnh

Hiện nay chưa có công trình phục vụ khách du lịch nào đáng kể ở Bãi Dài. Nhờ đó, du khách được tận hưởng những cảnh đẹp nguyên sơ, tươi mát đầy cuốn hút.

Bãi biển: Bãi Dài Phú Quốc có bờ biển dài 1500m, so với Bãi Khem cong cong cánh cung thì Bãi Dài có phần thẳng hơn một chút. Dọc theo bãi biển dài với cát biển cát trắng là hàng dương xanh cao to, mọc theo hàng thẳng tắp. Bên cạnh đó, bãi biển còn đậm chất hoang sơ này có cả rừng già đại thụ lan tận sát biển, hệ sinh thái rừng ngập mặn tuyệt đẹp tại các cửa sông nhỏ.

Biển: Biển ở đây trong xanh, ít ghe thuyền neo đậu, lại có sóng biển nhẹ nhàng. Nước biển trong xanh như ngọc bích ở Bãi Dài như thuộc về một nơi khác, tách biệt bởi vẻ thanh thoát trinh nguyên.

Các đảo nhỏ xung quanh: Cách bờ khoảng 800m có một đảo nhỏ, hòn Đổi Mồi với bãi cát dài trinh nguyên 50m, rất lý tưởng cho khách lặn xem san hô, câu cá.

Vị trí của thắng cảnh đối với Việt Nam và trên thế giới:

Được bầu chọn là đứng đầu trong 13 bãi biển hoang sơ và đẹp nhất thế giới.So với những bãi biển nổi tiếng khác của Việt Nam như Bãi biển Mỹ Khê – Đà Nẵng hay Bãi biển An Bàng – Hội An, Bãi Dài của Phú Quốc có được lợi thế hoang sơ của thiên nhiên chưa bị ảnh hưởng nhiều của ngành công nghiệp không khói.

Bãi Dài được coi là hòn ngọc quý góp phần làm nên danh tiếng của Phú Quốc, là thiên đường bình yên của nắng vàng cát trắng trong lòng du khách.

3. Kết bài: Khái quát tầm quan trọng của danh lam, đưa ra dự đoán hướng phát triển trong tương lai.

SCR.VN tặng bạn 💧 Giới Thiệu Về Một Danh Lam Thắng Cảnh 💧 17 Bài Văn Hay

Bài Thuyết Minh Về Danh Lam Thắng Cảnh Ở Kiên Giang Điểm 10 để lại nhiều ấn tượng cho các bạn đọc với hình ảnh miêu tả đa dạng và sinh động.

Việt Nam gắn liền với nhiều danh lam thắng cảnh đẹp, được nhiều người trong và ngoài nước biết đến, từ những món quà, sản vật của tạo hóa đến những công trình kiến trúc vĩ đại mang nét đẹp tôn giáo và thời đại. Trong đó không thể không kể đến hòn đảo lớn nhất Việt Nam- đảo Phú Quốc, tập trung nhiều danh lam thắng cảnh nổi tiếng Việt Nam và thế giới.

Đảo Phú Quốc là một hòn đảo nằm trong huyện xã Phú Quốc, thuộc tỉnh Kiên Giang, nằm trong vịnh Thái Lan, ngoài ra huyện đảo Phú Quốc còn được UNNESSCO công nhận là khu dự trữ sinh quyển thế giới.

Cấu tạo của đảo Phú Quốc chủ yếu từ những loại đá trầm tích tụ hàng ngàn năm mà thành, nơi đây từng là địa điểm mà người Hoa di cư sang trong đó có Mạc Cửu được chúa Nguyễn cho làm tổng binh cai trị đảo đất xưa vào thế kỷ 18, và chính thức thuộc chủ quyền nước ta vào năm 1855.

Không chỉ vậy, nơi đây còn được nhắc tới với nhiều giai thoại lịch sử, truyền thuyết như bà Kim Giao_ người hoàng tộc Chân Lạp, có công khai phá đất đai trồng trọt gắn liền với hình ảnh những con trâu, giếng tiên_gắn liền với giai thoại Nguyễn Ánh chạy trốn khỏi sự truy đuổi của nghĩa quân Tây Sơn, Khuyển vương sự tích của loài chó Phú Quốc ngày nay rằng chúng có nguồn gốc từ Ấn Độ dương đến Phú Quốc từ thuyền cướp biển, ông Đạo Đụng người dân xưa Phú Quốc được cho là đã đắc tạo thành tiên,…

Thuộc khu vực lãnh thổ Việt Nam, đảo Phú Quốc cũng mang kiểu khí hậu nhiệt đới gió mùa, tuy vậy đảo nằm gần xích đạo nên nơi đây phân hóa thành hai mùa rõ rệt: mùa khô và mùa mưa.

Mặc dù nhiệt độ vào mùa khô của Phú Quốc kỷ lục tới 38 độ c nhưng thời tiết nơi đây luôn rất mát mẻ. Không phải tự nhiên mà Phú Quốc trở thành một điểm đến nổi tiếng, thu hút du khách trong nước và quốc tế đến thăm, nơi đây có nhiều những bãi biển trải dài, mang những vẻ đẹp riêng, thơ mộng, tĩnh lặng như Bãi Sao, Bãi Dài, Bãi Trường, Bãi Cát Lấp,…..

Trong đó Bãi Dài được thế giới mệnh danh là một trong những bãi biển đẹp hoang sơ nhất, vì thế Bãi Dài luôn có số lượng lớn người tới thăm, chủ yếu là khách nước ngoài, tuy nổi tiếng là thế nhưng Bãi Dài rất ít được người Việt biết đến.

Ngoài ra Phú Quốc còn có hệ sinh thái động – thực vật phong phú thông qua công tác bảo tồn của vườn quốc gia Phú Quốc, khu bảo tồn biển Phú Quốc cùng vườn thú bán hoang Dã đầu tiên của Việt Nam, có danh lam nổi tiếng Suối Tranh nằm trong hang tạo nên một vẻ đẹp trầm lặng mà huyền ảo.

Không chỉ vậy, đảo Phú Quốc còn có những công trình kiến trúc văn hóa đặc trưng cho tôn giáo hoặc mang những vết tích của triều đại lịch sử hay như chùa Hộ Quốc_ ngôi chùa lớn nhất đảo được khởi công năm 2011, thờ Đức Ông; chùa Sư Muôn được dựng lên bởi Nguyễn Kim Môn vào đầu thế kỷ 20 dưới thời Pháp thuộc thờ Phật giáo; chùa Sùng Hưng chưa rõ người thành lập là ngôi chùa cổ nhất được xác định xây dựng vào thế kỷ XIX thờ Phật giáo,…

Kiến trúc của các chùa đều mang những nét cổ kính, thiêng liêng, mang đậm màu sắc tôn giáo. Với những tiềm năng phát triển như vậy, Phú Quốc thu hút được nhiều nhà đầu tư trong và ngoài nước tiêu biểu với công trình Công viên giải trí Vinpearl land.

Không chỉ vậy, đất Phú Quốc còn nổi tiếng với loài chó Phú Quốc với những đặc điểm đặc trưng như ở phía lưng có bờm lông dựng đứng cùng vòng xoáy với bốn chân dài, thân hình chúng thon và chắc khỏe.

Về nét đẹp văn hóa của Phú Quốc thì nơi đây được coi là đất phát tích của Đạo Cao Đài – Đạo Trời thờ Thượng đế được coi là Đấng sáng lập Đạo Trời và vũ trụ trong Đạo này. Có thể nói đảo Phú Quốc mang lại với Kiên Giang nói chung và Việt Nam nói riêng những giá trị to lớn về lịch sử và văn hóa.

Về giá trị lịch sử, Phú Quốc xuất hiện vết tích con người sinh sống từ thế kỷ X, trải qua gần 11 thể kỷ với những thăng trầm của lịch sử nơi đây đã chứng kiến những sự đổi thay từ thời chúa Nguyễn đến khi Việt Nam trở thành thuộc địa của Pháp, cùng với chiến tranh giữa người Khmer Đỏ với quân ta năm 1975 hay quân đội Tưởng Giới Thạch từng chạy trốn đến nơi đây.

Về giá trị văn hóa, đảo Phú Quốc lưu giữ nhiều nét đẹp văn hóa tôn giáo như đạo Cao Đài, Phật giáo,….qua những công trình chùa chiền, đền miếu hay những tục lệ, lễ hội địa phương như lễ hội Nguyễn Trung Trực, lễ Dinh Bà Ông Lăng, lễ Nghinh Ông,….

Ngoài ra đảo Phú Quốc còn mang lại nguồn lợi khổng lồ từ những lượt khách du lịch đến tham quan nơi đây cho địa phương cũng như nhà đầu tư, nổi tiếng với nhiều loại đặc sản như mắm Phú quốc, còi biên mai, tiêu Phú Quốc, cá khô Thiều, rượu Sim, nấm Tràm, rượu mỏ quạ, rượu Hải Mã, Hải Sản, Ngọc trai biển, Cá bớp, Điều Phú Quốc, Cá Trích cùng với đặc sản hồ tiêu Phú Quốc.

Nói chung, đảo Phú Quốc chiếm một vị thế quan trọng đối với Việt Nam về nhiều mặt; đem những nét đẹp văn hóa và thiên nhiên, đặc sản Việt Nam đến gần hơn với bạn bè quốc tế.

Chính vì thế, những giá trị ấy cần được bảo tồn và duy trì phát huy những giá trị ấy để truyền lại cho thế hệ nay và mai sau .

Xem Thêm Bài 💦 Thuyết Minh Về Hà Nam ❤️️ 15 Bài Giới Thiệu Hà Nam Hay

Thuyết Minh Về Danh Lam Thắng Cảnh Ở Kiên Giang Ngắn Gọn và súc tích giúp các em trau dồi thêm cho mình nhiều kiến thức hay.

Hà tiên – một vùng danh lam thắng cảnh của Kiên Giang. Nơi đây không chỉ đẹp về phong cảnh sơn thủy hữu tình mà còn được biết đến bởi những câu chuyện cổ tích gắn liền với các di tích lịch sử.

Từ thành phố Rạch Giá theo quốc lộ 80 đi khoảng 95 km là đến thị xã Hà Tiên, một thị xã được nối liền bằng một cây cầu bắc qua sông Tô Châu. Được hình thành cách đây 300 năm gắn liền với dòng họ Mạc, người đứng đầu khai phá vùng này là Mạc Cửu, và các con cháu của ông. Tục truyền rằng nơi này xưa kia cũng từng là nơi xuất hiện của các nàng tiên nên đã có cái tên thơ mộng như vậy.

Hà Tiên là nơi hội tụ nhiều danh lam thắng cảnh hoang sơ đầy quyến rũ, tiêu biểu nhất của Nam Bộ. Mỗi nơi một vẻ, sắc thái đặc biệt đến mức lạ lùng. Khi đến với Hà Tiên cái tên thường gây cho ta một cảm xúc nhẹ nhàng, du khách được chiêm ngưỡng vẻ đẹp của một vùng đất thần tiên, với những di tích lịch sử oai hùng, những chùa chiền cổ kính gắn liền với truyền thuyết… Đến Hà Tiên du khách còn đươc ngắn cảnh của hai ngọn núi Đại và Tiểu Tô Châu luôn soi bóng trên dòng nước Đông Hồ.

Từ xưa vẻ đẹp của Đông Hồ đã quyến rũ được nhiều danh nhân và thi nhân đến xuất khẩu ngâm vịnh với những bài thơ tuyệt tác, còn làm cho những nhạc sĩ sáng tác những ca khúc mang đầy chất chữ tình mà khi hát lên làm say lòng người. Đông Hồ nằm về phía Đông thị xã Hà Tiên dài khoảng 3km, rộng gần 2km. Có con sông Giang Thành và phía Tây có sông dẫn ra biển. Toàn cảnh hồ bốn bề là núi sông, tạo ra vẻ đẹp tự nhiên và thơ mộng.

Cách thị xã Hà Tiên khoảng 3km có một tảng đá xanh cao chừng 50m, nằm sừng sững nghạo nghễ như một chiến sĩ biên phòng đang canh chừng biên giới của Tổ quốc. Đó là một Thạch động, nó được mô tả thạch động nuốt mây. Vào lúc sáng tinh mơ, những tảng mây trắng nhẹ như bông là là bay qua đỉnh động rồi bị cản lại, từng đám mây từ từ toả quanh cửa động gây ấn tượng như miệng động đang nuốt từng đám mây.

Trong hang cảnh đẹp lạ lùng, những giọt nước mưa theo năm tháng luồn lách chảy xuất hoà tan với đá vôi tạo thành những thạch nhũ có hình dáng ngộ nghĩnh vừa kỳ lạ, vừa hấp dẫn. Gần Thạch động có núi Đá Dựng cũng được cấu thành bằng đá vôi, cao đến 63m.

Trải qua năm tháng và thời gian, ngọn núi này vẫn giữ được nét hoang sơ, trong hang như là một tòa lâu đài cổ kính với hàng trăm vọng gác chuông, có nhiều hang nghách ăn luồn sâu thăm thẳm như hang mẹ đẻ, muốn vào được phải có đền chiếu sáng, có đoạn không thể đi bình thường mà phải bò mới qua được nên mới có tên hang mẹ đẻ.

Đặc biệt trong hang có một hệ thống thạch nhũ lơ lửng trên vách đá, nhìn như chiếc đàn năm dây khi chạm tay vào thạch nhũ phát ra những âm thanh huyền diệu.

Cũng nằm cách thị xã Hà Tiên khoảng 4km du khách sẽ gặp mũi Nai, ngọn núi cao 100m nhô mình ra biển. Trên đỉnh núi có ngọn hải đăng được xây dựng từ thế kỷ 19. Đây là nơi có bãi biển rất đẹp, từ đây du khách có thể tắm biển dưới dòng nước trong xanh và thưởng thức các món ăn đặc sản của miền biển như: tôm, cua, ghẹ, hào, ốc… vào những ngày đẹp trời du khách có thể nhìn thấy quần đảo Hải Tặc, đảo Phú Quốc.

Ngoài cảnh đẹp Hà Tiên du khách còn được thăm nhiều ngôi mộ cổ của gia đình họ Mạc như: Mạc Cửu, Mạc Thiên Tích, Mạc Tử Hoàng, Mạc Công Du… những ngôi mộ này được nằm trên một ngọn đồi, có cảnh đẹp nên thơ, dưới chân đồi là nhà thờ của dòng họ Mạc, thường xuyên mở cửa để đón du khách đến thăm viếng.

Hà Tiên còn là “chiến luỹ” của phương thành xưa dùng để ngăn chặn giặc thù, cũng ở đây du khách còn được thăm Phù Dung Tự là một ngôi chùa kể về người con gái rất giỏi văn thơ được Mạc Thiên Tích cứu sống và hết lòng yêu mến, do đường tình duyên chắc trở bà đã xin đi tu và Mạc Thiên Tích đã xây cất cho bà ngôi chùa để tu hành và đến khi bà mất Mạc Thiên Tích lại cho xây một ngôi mộ thật đẹp dưới có ao sen trắng, để kỷ niệm mối tình của ông với bà.

Sẽ còn nhiều những câu chuyện và di tích đã được gắn liền với mảnh đất và con người Hà Tiên mà nếu đặt chân đến du khách sẽ còn nhiều bất ngờ. Xin hãy đến với Hà Tiên mảnh đất phía Tây Nam của tổ quốc với nhiều danh lam thắng cảnh đang chào đón du khách thập phương.

Đọc Thêm Bài 💦 Thuyết Minh Về Hà Giang ❤️️ 15 Bài Giới Thiệu Hà Giang Hay

Thuyết Minh Về Danh Lam Thắng Cảnh Ở Kiên Giang Hà Tiên một vùng đất được thiên nhiên ưu ái cho nhiều cảnh đẹp, non nước hữu tình.

Có những miền đất khi đi qua đọng lại trong ta nhiều ấn tượng khó quên: Hà Tiên là một nơi như thế. Thuộc miền Tây Nam Bộ, Hà Tiên là vùng đất được thiên nhiên ưu đãi có biển, núi, rừng xen giữa đồng bằng phì nhiêu.

Thị xã Hà Tiên được hình thành cách đây 300 năm. Thị xã Hà Tiên sầm uất và nên thơ nằm giữa các núi pháo đài (Kim Dữ), núi Lăng (Bình San), núi Ngũ Hổ và Đông Hồ. Muốn ngắm toàn cảnh Hà Tiên không gì thú bằng trèo lên tận đỉnh núi Tô Châu, một quả núi nho nhỏ, xinh xắn nằm phía trước thị xã.

Đứng từ đỉnh, du khách có thể chiêm ngưỡng cảnh quan Đồng Hồ, một hồ nước có chiều dài 3km và rộng 2km, ở ngay cửa sông Giang Thành. Đông Hồ đẹp nhất vào những đêm gió mát trăng thanh, do đó họ Mạc (Mạc Cửu) mới đặt tên là “Đông Hồ ấn nguyệt tức Đông Hồ in bóng trăng.

Ngày xưa, gần núi Tô Châu có một đảo nhỏ gọi là Tiểu Kim Dữ, nay đã dính vào địa đầu núi này. Đối diện với Tiểu Kim Dữ là Đại Kim Dũ ở bên mé chợ Hà Tiên, họ Mạc đặt tên là “Kim Dữ lan đào” (hòn đảo vàng chắn sóng gió).

Dấu tích một thời khai hoang còn in rõ nét trên mảnh đất này qua hình ảnh lăng Mạc Cửu được người dân thờ nhớ ơn công lao mở mang bờ cõi của dòng họ Mạc.

Hang Thạch Động cách thị xã Hà Tiên 3km, được xem là động đá duy nhất ở đồng bằng sông Cửu Long. Hang khá rộng, bên trong vô cùng dễ chịu bởi không khí mát lạnh được toát ra từ vách đá cấu tạo bằng đá vôi. Động có nhiều thạch nhũ với nhiều hình thù lạ mắt được tạo nên từ những giọt nước mưa chảy xuống qua hàng trăm năm: Nhô ra biển vịnh Thái Lan là bãi tắm Mũi Nai được bao bọc bởi hai ngọn núi lấn biển.

Một trong những ngọn núi đó vươn mình như đầu chú nai đang ngơ ngác tìm bầy. Xuôi về Hòn Chông, qua những rặng dừa xanh cao vút sẽ thấy Hòn Phụ Tử thiêng liêng đứng giữa trời mây, non nước. Như một biểu tượng tình cha con. Phụ Tử mang bóng dáng người cha cao cả đang che chở cho đứa con nhỏ bé của mình.

Nhà lưu niệm Đông Hồ cũng là một dấu ấn văn hoá thu hút du khách mỗi khi ghé ngang Hà Tiên. Từ năm 1926 đến năm 1934. nhà thơ Đông Hồ đã chủ trương dạy tiếng Việt cho học trò va cổ động bạn bè cùng theo tại nhà lưu niệm này. Qua nhiều biển cố nhà lưu niệm Đông Hồ hiện được nữ sĩ Mộng Tuyết, người bạn đời của ông gìn giữ bảo quản và trưng bày những kỉ vật, di cảo ông từng gắn bó.

Trong nhà được bài trí đơn giản nhưng tao nhã. Di cảo nhà thờ sắp xếp gọn gàng trong tủ kính. Một số bức thư họa uyên thâm ông mừng tuổi vợ mỗi độ xuân về được treo trang trọng trong phòng khách. Thăm nhà lưu niệm Đông Hồ để hiểu rõ hơn những giá trị của công trình khảo cửu bậc tiền nhân xưa. Đến Hà Tiên không chỉ thấy sự phát triển của miền đất trẻ mà còn để cảm nhận nụ cười thân ái của con người và cảnh đẹp nơi đây.

Từ chợ Hà Tiên đi về hướng biên giới chừng 3km là Thạch Động. Động đá này cao 98m, hình dáng tương tự như chiếc mũ lông của lính ngự lâm Hoàng gia Anh Quốc, rộng vừa đẹp vừa lạ mắt. Đi thêm chừng 2km nữa thì đến núi Đá Dựng. Đây là ngọn núi đá vôi cao 83m, đỉnh bằng phẳng, bên trong có nhiều hang động đầy thạch nhũ óng ánh trông như ngọc châu. Họ Mạc đặt tên là “Châu nham lạc lộ” (châu nham là núi như châu ngọc, lạc lộ là bãi chim cò thường đến ngủ).

Nếu đi dọc bờ biển, cách thị xã 4km là Mũi Nai, cao 100m, trên đỉnh có ngọn hải đăng xây từ thế kỉ XIX. Từ xa trông Mũi Nai nhô ra biển chẳng khác nào đầu chú nai đang ngơ ngác nhìn sóng nước. Đẹp nhất và nổi tiếng nhất phải kể đến hòn Phụ Tử, xưa nay là hình ảnh biểu trưng cho non nước Hà Tiên thơ mộng và quyến rũ. Hòn Phụ Tử gồm hai trụ đá, một cao lớn, một thấp bé nhô lên từ biển trông như hình tượng cha con quấn quýt lấy nhau, dầm mưa dãi nắng từ bao vạn kỉ giữa mặt nước trong xanh…

Thật là kì thú và đầy ấn tượng nếu các bạn du lịch đến Hà Tiên.

Chia Sẻ Bài 💦Thuyết Minh Về Danh Lam Thắng Cảnh Ở Gia Lai ❤️️ 14 Bài Hay

Thuyết Minh Về Danh Lam Thắng Cảnh Ở Kiên Giang Đảo Phú Quốc, một địa danh được du khách biết đến là ”Đảo Ngọc”.

Phú Quốc có diện tích 589,23 km², trải dài từ vĩ độ 9°53′ đến 10°28′ độ vĩ bắc và kinh độ từ 103°49′ đến 104°05′ độ kinh đông, nằm cách thành phố Rạch Giá 120 km và cách thành phố Hà Tiên 45 km. Năm 2006, Khu dự trữ sinh quyển ven biển và biển đảo Kiên Giang bao gồm cả Phú Quốc được UNESCO công nhận là khu dự trữ sinh quyển thế giới.

Phú Quốc, từ lâu, đã trở nên nổi tiếng với khách du lịch khắp mọi miền đất nước và quốc tế. Điều này không chỉ vì Phú Quốc là một hòn đảo xinh đẹp mà nơi đây còn chứa đựng nhiều điều bí ẩn mà không phải ai cũng có thể khám phá hết được.

Bên cạnh sự phát triển mạnh mẽ của loại hình du lịch nghỉ dưỡng đã được khẳng định, Phú Quốc còn là điểm đến lý tưởng cho các hoạt động khám phá thiên nhiên kỳ thú có thể làm lạc bước chân du khách khi đặt chân đến hòn đảo xinh đẹp này

Phú Quốc có nhiều bãi biển đẹp trải dài từ phía bắc đến phía nam, có 99 ngọn núi đồi và dãy rừng nguyên sinh với hệ động thực vật phong phú.

Phía Bắc của đảo có làng chài Rạch Vẹm, Bãi Thơm, Hòn Một,… nổi bật với vẻ đẹp hoang sơ hay ở Nam Đảo có 12 hòn đảo nhỏ to khác nhau thuộc quần đảo An Thới có thể kể đến như Hòn Thơm, Hòn Móng Tay, Hòn Gầm Ghì, Hòn Mây Rút,… là những nơi lý tưởng cho các hoạt động khám phá thiên nhiên cùng các hoạt động trên biển như du thuyền, câu cá, lặn ngắm san hô và khám phá đảo hoang kỳ thú…

Gợi Ý Bài 🌹 Thuyết Minh Về Một Danh Lam Thắng Cảnh Ở Hà Nội ❤️️15 Bài

Thuyết Minh Về Danh Lam Thắng Cảnh Ở Kiên Giang Đảo Hải Tặc giúp các em có thể học hỏi và trau dồi thêm cho mình nhiều kiến thức trong cuộc sống.

Nằm cách trung tâm TP.Hồ Chí Minh khoảng 350km, tuy không nổi tiếng như Phú Quốc, Nam Du hay Bà Lụa nhưng quần đảo Hải Tặc lại mang một sức cuốn hút khó cưỡng, không chỉ toát ra từ tên gọi mà còn bởi vẻ đẹp hoang sơ, kỳ bí.

Đảo Hải Tặc ở Kiên Giang được xem là một điểm đến lạ lùng ngay từ tên gọi. Thực chất đây là tên của một quần đảo gồm 16 hòn đảo mà lớn nhất là đảo Hòn Tre (Hòn Đốc), nằm ở xã Tiên Hải, huyện Hà Tiên. Nơi đây cách bờ biển Hà Tiên gần 28 km và đảo Phú Quốc 40 km.

Ngay từ tên gọi, du khách đã có thể hình dung về quá khứ một thời trên đảo. Do nằm trong khu vực vịnh Hà Tiên – Rạch Giá ra đến vịnh Thái Lan, một tuyến đường thông thương quan trọng từ Trung Quốc sang các nước phương Tây, nên từ nhiều thế kỷ trước, quần đảo này là nơi lý tưởng để cướp biển đồn trú, ẩn nấp, mai phục và tấn công các tàu buôn qua lại. Đến tận những năm đầu thế kỷ 20, ở vùng biển này nạn cướp biển vẫn hoành hành.

Không chỉ là nỗi ám ảnh của nhiều tàu thuyền, đảo Hải Tặc còn được cho là nơi cất giấu kho báu. Có người tin đó chỉ là lời đồn, cũng có người coi đó là sự thật. Nhưng nếu ngược thời gian về những năm 80 của thế kỷ trước, từng có người nước ngoài xâm nhập đảo với ý đồ truy tìm kho báu. Lời kể về một tấm bản đồ 300 tuổi chỉ dẫn đến kho báu cất giấu trên đảo, cùng một lượng lớn tiền cổ tìm được ở đây càng khiến đảo Hải Tặc trở nên đặc biệt hơn.

Ngày nay, ngoài sự hiếu kỳ từ tên gọi, người ta còn đến đảo Hải Tặc để khám phá một vẻ đẹp hoang sơ hiếm có.

Bạn có thể đi du lịch đảo Hải Tặc vào tất cả các mùa trong năm, tuy nhiên thời gian đẹp nhất là vào mùa khô, vì khoảng thời gian này biển khá êm và trong xanh, do vậy những bạn bị say sóng cũng sẽ giảm được nhiều khó chịu khi di chuyển bằng tàu.

Quần đảo Hải Tặc có 16 hòn đảo nằm gần nhau gồm: Hòn Kèo Ngựa, hòn Kiến Vàng, hòn Tre Lớn, hòn Tre Vinh, hòn Gùi, hòn Ụ, hòn Giang, hòn Chơ Rơ, hòn Đước Non, hòn Bô Dập, hòn Đồi Mồ. Trong đó, Hòn Tre Lớn (Hòn Đốc) là trung tâm xã đảo Tiên Hải nơi tập trung dân cư sinh sống.

Trên đảo có bãi biển cát trắng rất đẹp trải dài mấy trăm mét, bạn có thể tắm biển thoải mái, chơi các trò chơi trên bãi các tự túc, hoặc thuê kính lặn biển đi ngắm san hô gần bờ, mò cua bắt ốc quanh các gành đá có rất nhiều.

Ngoài ra trên đảo còn có ao nước ngọt, đây là ao nước ngọt dự trữ để dùng cho cả đảo này nên rất quan trọng. Điểm tiếp theo mà bạn không thể bỏ qua khi đến đảo Hải Tặc không thể bỏ qua là bia chủ quyền quốc gia, trên cột mốc ghi tên tất cả 16 đảo thuộc quần đảo Hải Tặc.

Đa phần diện tích đảo là cây rừng che phủ, nơi giáp với nước mặn là ghềnh đá trơ trọi và hoang sơ. Tại đây, ngoài việc được tìm hiểu và nghe những người bản địa kể lại những câu chuyện về nguồn gốc, xuất xứ tên gọi của quần đảo Hải Tặc, bạn sẽ có cơ hội trải nghiệm cảnh quan thiên nhiên với những vẻ đẹp hoang sơ, mát ngọt và trong lành.

Một trong những hoạt động không thể bỏ qua khi ở lại đảo là câu mực, cá ban đêm và lặn biển bắt sò, ghẹ, ốc… Khi bạn ở lại tại nhà dân, bạn có thể xin họ cho theo thuyền ra khơi để thử những cảm giác mới lạ.

Chia Sẻ Bài 🌹 Thuyết Minh Về Danh Lam Thắng Cảnh Ở Hà Tĩnh ❤️️15 Bài

Thuyết Minh Về Danh Lam Thắng Cảnh Ở Kiên Giang Bãi Khem được nhiều bạn đọc quan tâm và chia sẻ sau đây.

Bãi Khem nằm phía nam đảo Phú Quốc, thuộc phường An Thới, cách phường Dương Đông khoảng 25 km. Từ An Thới, đi về phía Đông khoảng 2 km để đến bãi Khem. Từ bãi Sao có một lối nhỏ dài khoảng 2 km có thể đi đến bãi Khem.

Bãi Khem mang hình vòng cung, có nhiều khối đá nhô lên trên bãi cát, nước biển trong xanh có thể nhìn xuống tận đáy. Bãi cát thoai thoải, trắng và mịn nổi bật lên giữa hai sườn rừng cây xanh.

Bãi Khem thu hút khách du lịch với vẻ hoang sơ, tĩnh lặng, không ồn ào náo nhiệt như các bãi biển khác trên đảo Phú Quốc.

Người dân chài xung quanh sinh sống, đánh bắt cá tạo ra không khí lao động tươi vui, chân thật cho những du khách thích khám phá vẻ đẹp cuộc sống bình dị.

Ở cuối Bãi Khem còn có Giếng Tiên, mặc dù nằm sát biển nhưng giếng vẫn không bị nhiễm mặn. Điều lạ kì là dù khi cả thủy triều lên thì nơi đây vẫn không bị nhiễm mặn hay cạn nên có nhiều câu chuyện xoay quanh cái giếng này. Chỉ là một mạch nước nhỏ, nhưng dù cho có lấy đi bao nhiêu nước, thì cái hồ trên không bao giờ cạn.

Do nằm ngay làng chài nên hải sản ở bãi Khem rất tươi ngon. Trong đó, món ăn nổi tiếng nhất là món gỏi cá trích. Món gỏi cá trích ở bãi Khem thơm ngon và đặc biệt rẻ hơn những nơi khác. Đây là một món ăn không thể bỏ qua của các du khách khi đến với bãi Khem.

Gợi Ý Bài 🌹 Thuyết Minh Về Cao Bằng ❤️️15 Bài Giới Thiệu Cao Bằng Hay

Nằm trong khu du lịch Hòn Phụ Tử, Chùa Hang ở Kiên Giang có tên chữ là Hải Sơn Tự, là ngôi “Phật động” nổi tiếng, nằm trong lòng núi đá thâm u, mờ ảo. Núi Hải Sơn nằm sát bờ, sóng biển vỗ về quanh năm, vách dựng lên như một hải vọng đài. Lòng núi là hang động tự nhiên do nước biển xâm thực cách đây hàng ngàn năm để lại.

Trước sân Chùa Hang (Hà Tiên, Kiên Giang) thờ tượng Phật Di Lặc nặng tới 22 tấn, bằng đá Non Nước được thỉnh về từ Đà Nẵng. Không gian phía trên là vách núi có nhiều cây cổ thụ mọc cheo leo, thả xuống những chùm rễ dài lơ lửng giữa không trung, càng khiến nơi này thêm u tịch.

Chánh điện Chùa Hang nằm gọn trong lòng động với hai cửa chạy thẳng theo trục Đông Bắc -Tây Nam dài hơn 50 mét. Cửa động sau ăn thông ra biển, chỗ hẹp nhất cũng vừa cho 3-4 người qua lọt. Đi khoảng mươi mười lăm phút theo đường hang ngoằn ngoèo, bạn sẽ cảm nhận được những ngọn gió từ biển thổi vào mát rượi, và mở ra trước mắt là một khoảng sáng xanh. Tiếp tục đi khoảng 60 mét nữa thì đến biển, phía trước là danh thắng Hòn Phụ Tử.

Lòng động Chùa Hang cũng có nhiều thạch nhũ muôn hình, mà khi gõ vào thì âm thanh ngân lên như tiếng chuông nên còn được gọi là đá chuông. Trong động còn có Hang Kim Cương với đường lên trời, và Hang Phật Ngủ thì nửa tối nửa sáng với tảng đá hình Phật nằm tĩnh tại.

Động Chùa Hang dài thăm thẳm, cùng những tượng Phật lung linh ẩn hiện, càng tạo cho nơi này cảm giác huyền bí, linh thiêng. Hàng năm, Chùa Hang (Hà Tiên, Kiên Giang) tổ chức lễ hội long trọng từ ngày mùng 8 kéo dài đến ngày 15 tháng 4 âm lịch, thu hút nhiều khách thập phương về dự.

Gợi Ý Bài 🌵 Thuyết Minh Về Đảo Phú Quốc ❤️️16 Bài Giới Thiệu Phú Quốc

Thuyết Minh Về Danh Lam Thắng Cảnh Ở Kiên Giang Hòn Tre là tài liệu tham khảo hữu ích để các em có thể ôn tập đạt hiệu quả cao.

Hòn Tre là trung tâm hành chính của huyện Kiên Hải, tỉnh Kiên Giang, cách thành phố Rạch Giá, tỉnh Kiên Giang gần 30km về phía Tây, đảo Hòn Tre như một con rùa khổng lồ nổi lên giữa biển khơi. Từ bến cảng Rạch Giá đến Hòn Tre mất độ 2 giờ ngồi tàu, không chỉ là đảo gần đất liền nhất có những công trình tôn giáo mộc mạc đậm “bản sắc biển khơi”, mà Hòn Tre còn lưu giữ được vẻ hoang sơ với nhiều cảnh đẹp đến nao lòng.

Toàn đảo có 900 nóc nhà trên đảo thì hơn 700 nhà “co cụm” dọc hai bên con đường cộng với hơn 300 tàu thuyền ghe xuồng lớn nhỏ neo đậu sát bên càng làm cho trung tâm Hòn Rùa như “thành phố chài”.

Hòn Tre có tổng diện tích tự nhiên 428,59ha, có chiều dài 3,5km, nơi rộng nhất chừng 2km, đỉnh cao nhất 395m, địa hình dốc, chủ yếu là đồi núi, độ cao trung bình trên 30m. Trên đảo có hai ngọn núi: ngọn cao phía Nam và ngọn thấp phía Bắc, từ Rạch Giá nhìn ra biển, hai ngọn núi này tạo cho đảo có hình dáng giống như một con rùa nổi giữa biển nên người dân còn gọi khu vực này là Đảo Rùa. Cư dân trên đảo sinh sống bằng nghề làm vườn, đánh bắt và chế biến hải sản.

Có người cho rằng đúng tên phải là “Hòn Che” bởi đảo có vị trí án ngữ dông bão, che chắn cho Rạch Giá. Cấu tạo địa chất chỉ có đá chồng lên đá để tạo thành đảo Hòn Tre, mảng đất ít ỏi kẹt giữa khe, hốc, hang đá được người dân trồng xoài, mãng cầu, mít, phần trên cao gần đỉnh là rừng nguyên sinh ít cây cổ thụ, nhiều bụi lùm và dây leo, có nhiều khỉ, sóc, ít kỳ đà và trăn. Trên đảo có nhiều khe suối nhỏ là nguồn cung cấp nước ngọt sinh hoạt cho người dân Hòn Tre.

Bờ biển quanh đảo có hình dáng uốn lượn, cao thấp khá phức tạp, tuy vậy cũng có những khu vực tương đối bằng phẳng với bãi đá tự nhiên trải dài, phù hợp cho tổ chức du lịch, dã ngoại như Bãi Chén, Động Dừa, Bãi Dứa, đuôi Hà Bá. Bãi Chén nằm ở phía Tây Bắc của đảo, là một vịnh nhỏ sóng êm, có chiều dài khoảng 2km.

Đặc điểm của bãi Chén là ven bờ có rất nhiều tảng đá to tròn như cái bát (chén) úp khổng lồ. Đến bãi Chén bạn có thể ngồi trên những cái chén đá đó câu cá, ngắm cảnh, nghỉ ngơi sau những giây phút bơi đùa thỏa thích. Đây là bãi tắm sạch đẹp nhất của Hòn Tre, cảnh vật vẫn giữ được nét hoang sơ, dưới là biển, trên bờ cây rừng tỏa bóng mát.

Xem Thêm Bài 🌵 Thuyết Minh Về Đất Mũi Cà Mau ❤️️ 16 Bài Giới Thiệu Cà Mau

Thuyết Minh Về Danh Lam Thắng Cảnh Ở Kiên Giang Hòn Phụ Tử, một trong những địa điểm du lịch mà du khách quan tâm đến.

Đây là hòn đảo nhỏ gồm hai khối đá dính liền nhau trên một bệ đá có chiều cao 5m so với mực nước biển. Trong đó hòn Phụ có chiều cao khoảng 33.6m và hòn Tử cao khoảng 30m. Hòn Phụ Tử cao nghiêng nghiêng cùng một chiều tượng trưng cho hình ảnh hai cha con quấn quýt bên nhau cùng trông ra biển cả.

Truyền thuyết Hòn Phụ Tử kể rằng: xưa kia ở vùng biển này có con thuồng luồng rất hung dữ, hay đánh đắm thuyền bè để ăn thịt ngư dân. Bên chân ngọn Hải Sơn, có hai cha con làm nghề chài lưới. Quá bất bình trước tình cảnh này, người cha quyết lòng tiêu diệt con ác thú trừ hại cho bà con. Sau khi tính hết kế, cuối cùng ông thấy chỉ còn cách hy sinh thân mình mới mong diệt trừ được con thuồng luồng này. Thế là ông liền tẩm thuốc độc vào mình, nằm sát mé biển để dụ con ác thú.

Thấy mồi ngon, con thuồng luồng đến ăn thịt ông, liền trúng độc rồi chết. Người con đi tìm cha, bắt gặp phần xác cha còn xót lại liền ôm lấy khóc thương thảm thiết. Không ngờ chất độc từ người cha thấm vào khiến người con trúng độc mà chết theo. Trời nổi giông bão, mưa suốt mấy ngày liền, và nơi hai cha con nằm mọc lên hai hòn đá lớn và nhỏ. Người dân tôn kính gọi là Hòn Phụ Tử.

Trước đây, Hòn Phụ Tử được xem là biểu tượng cho cảnh đẹp Kiên Giang, và đã được công nhận là danh lam thắng cảnh quốc gia vào năm 1989. Tiếc thay, sự cố thiên nhiên xảy ra vào năm 2006 đã khiến cho Hòn Phụ Tử bị gãy mất hòn Phụ nặng khoảng 1.000 tấn. Khu du lịch Hòn Phụ Tử ngày nay chỉ còn lại hòn Tử nằm chơ vơ giữa biển khơi.

Tham Khảo Bài ❤️️ Thuyết Minh Về Nhà Tù Phú Quốc ❤️️ 15 Bài Giới Thiệu Hay

Núi Đá Dựng là một địa điểm du lịch mới đang thôi thúc nhiều hơn những bước chân từ khắp nơi đến bởi vẻ đẹp được ví như động Phong Nha trên vùng đất phù sa. Đây còn là món quà đặc biệt mà thiên nhiên ban tặng cho vùng đất Hà Tiên với vẻ đẹp đầy mê hoặc

Núi Đá Dựng nằm ở xã Mỹ Đức, thị xã Hà Tiên, tỉnh Kiên Giang, gần biên giới Việt Nam – Campuchia. Từ thị xã Hà Tiên, theo đường quốc lộ 80 đến gần Thạch Động, rẽ phải và đi khoảng 2,5km nữa là đến núi Đá Dựng. Núi Đá Dựng cao khoảng 100m, có cái tên như vậy bởi dựa vào hình dáng núi mà người dân nơi đây đặt tên.

Nó chính là ngọn núi có đóng góp với dân tộc trong 2 cuộc chiến tranh trước năm 1975, núi Đá Dựng được chọn là cơ sở hoạt động cách mạng của dân tộc ta. Những năm 1977 – 1978, đây là một tiền đồn trong cuộc chiến tranh biên giới Tây Nam. Chính vì vậy, núi Đá Dựng được xem là di tích lịch sử và là danh thắng nổi tiếng của vùng đất Hà Tiên. Đến tham quan núi Đá Dựng, du khách không chỉ để khám phá được những hang động đẹp mà còn biết thêm về một di tích lịch sử của đất nước.

Đứng ở bên trong lòng núi Đá Dựng nhìn ra ngoài, du khách có thể thấy được vẻ đẹp tuyệt vời của quang cảnh, thiên nhiên vùng đất Hà Tiên. Bao bọc quanh núi là những cánh đồng lúa trải dài ngút mắt, rất nhiều đầm lầy, bụi rậm tạo phong cảnh hoang sơ, kỳ thú.

Đường lên các hang động của Đá Dựng dài 3.149m. Núi được kiến tạo bởi nhiều tầng lớp đá vôi, qua thời gian và dưới sự tác động của thời tiết mà nơi đây đã hình thành nên những vách núi với hình dáng kỳ lạ, những hang động đẹp kỳ vĩ.

Núi Đá Dựng có khoảng 14 hang động lớn, nhỏ nối với nhau tạo thành những “mê cung” bí hiểm và mang vẻ đẹp như bức tranh đá điêu khắc.

Núi Đá Dựng lôi cuốn du khách đến tham quan không chỉ vì cảnh đẹp xung quanh núi mà còn vì những cái tên độc đáo của các hang động có ở đây. Mỗi hang động đều có những cái tên rất lạ được đặt tên dựa theo truyền thuyết, hình dạng thạch nhũ hoặc cảm giác mà động mang lại cho du khách khi bước vào bên trong.

Hang động Cội Hàng Gia theo truyền thuyết chính là nơi Thạch Sanh từng sinh sống và cũng là nơi Thạch Sanh bắn chết con chim đại bàng để cứu công chúa. Động Thần Kim Quy có cái tên như vậy bởi vì ở động có khối đá màu vàng hình dáng như con rùa đang ngẩng đầu.

Khi du khách bước vào động Bồng Lai sẽ tưởng chừng như đang lạc vào chốn bồng lai tiên cảnh, hang có góc nhìn đẹp, thấy được cả những áng mây đang bay trên bầu trời.

Động Sám Hối có những khối thạch nhũ trên vách động nhìn như một nhà sư đang trầm tư, cúi đầu tựa vào vách đá. Động Lầu Chuông có rất nhiều thạch nhũ, du khách thử gõ vào sẽ tạo nên những tiếng ngân nga trong vắt như tiếng chuông. Hang Mẹ Sanh càng đi vào sâu hang càng nhỏ dần đến khi thấy ánh sáng chói lòa thì đã ra khỏi hang.

Vào hang Trống ngực, nếu du khách đưa tay vỗ nhẹ lên ngực mình, lập tức sẽ nghe được tiếng vọng lại từ vách đá.

Đặc biệt hơn cả có lẽ phải kể đến là hang Xã Lộc Kỳ thông với bên ngoài bằng một lối đi rất nhỏ, trong hang có giếng trời với đầy dây leo rũ xuống làm cho hang trở nên rất kỳ thú, mà theo trí tưởng tượng con người, những dây leo tua tủa lá xanh tốt cứ như hàng mi của con mắt tự nhiên, sáng rỡ khi nắng lên và trở nên u buồn khi chiều buông xuống.

Ngoài ra, núi Đá Dựng còn nhiều hang động khác như hang Dơi, động Khổ Qua…. Núi Đá Dựng là nơi ghi dấu nhiều sự kiện văn hóa, lịch sử gắn liền với sự hình thành, phát triển của vùng đất Hà Tiên.

SCR.VN Gợi Ý Bài 🌵Thuyết Minh Về Bình Thuận ❤️️ 16 Bài Giới Thiệu Bình Thuận

Thuyết Minh Về Di Tích Lịch Sử Ở Kiên Giang Ấn Tượng, cùng tham khảo bài văn hay giới thiệu về nhà tù Phú Quốc nổi tiếng sau đây.

Nhà tù Phú Quốc là một minh chứng lịch sử về những cuộc đấu tranh kiên cường, bền bỉ của dân tộc Việt Nam cũng như những tội ác của đế quốc thực dân. Đến nay, khi chiến tranh đã đi qua nhưng nơi đây vẫn là nỗi ám ảnh của những chiến sĩ cách mạng lẫn nhiều du khách.

Nhà tù Phú Quốc là một trại giam nằm ở số 350, đường Nguyễn Văn Cừ, xã An Thới, cách trung tâm của thị trấn Dương Đông, Phú Quốc 28km.

Trong chiến tranh Đông Dương, nhà tù này còn có tên là nhà lao Cây Dừa. Đây là trại giam tù binh trung tâm toàn Việt Nam Cộng hòa, từng giam giữ hơn 32.000 tù binh. Đến năm 1995, nơi đây được Bộ Văn hóa – Thông tin công nhận là di tích lịch sử cấp Quốc gia, cũng kể từ đó, nhà tù được mở cửa cho du khách đến tham quan.

Có lẽ khi đặt chân đến đây, các du khách đều tò mò về những câu chuyện thời chiến, những tội ác dã man mà người ta thường nhắc về thời Pháp thuộc, Mỹ – Ngụy. Những câu chuyện được tái hiện chân thực sẽ là minh chứng rõ ràng nhất cho sự tàn khốc và ác liệt của chiến tranh.

Nếu có người thắc mắc nhà tù Phú Quốc xây dựng năm nào, đó chính là thời điểm năm 1946, khi thực dân Pháp chiếm đóng Phú Quốc để xây dựng nhà tù lớn nhất Đông Nam Á. Nhà lao lúc đó có diện tích khoảng 40 ha và được chia làm 4 khu A, B, C, D.

Nơi đây được canh gác cực kỳ nghiêm ngặt, xung quanh được bao bọc bởi hàng rào thép gai, phía trên có đèn bảo vệ. Các chòi canh và lính tuần tra được trang bị đầy đủ súng. Đến tháng 4/1954, nhà tù có khoảng mười bốn nghìn tù nhân, chủ yếu là nam giới. Dưới sự tra tấn tàn bạo của thực dân Pháp, 99 chiến sĩ cộng sản đã hy sinh.

Chia sẻ 🌼 Thuyết Minh Về Một Danh Lam Thắng Cảnh Ngắn Gọn 🌼 15 Mẫu Hay Nhất

Thuyết Minh Về Danh Lam Thắng Cảnh Ở Kiên Giang Chùa Cổ Sùng Hưng, cùng tham khảo bài văn hay được nhiều bạn yêu thích sau đây.

Chùa Sùng Hưng (Sùng Hưng Cổ Tự) là ngôi chùa cổ nhất ở thành phố Phú Quốc, tỉnh Kiên Giang, Việt Nam. Chùa tọa lạc trên đường Trần Hưng Đạo ở phường Dương Đông, thành phố Phú Quốc.

Theo tài liệu còn lưu lại, thì trước kia nơi đây là nghĩa địa hoang vắng, Thi sĩ Đông Hồ đã có đoạn miêu tả như sau:”Trước kia nơi đây là đất nghĩa địa, có Chùa thờ là Sùng Nghĩa Tự và một Chùa nữa là Hưng Nhân Tự. Sau đó sửa chung làm một và lấy hai chữ Sùng – Hưng làm hiệu Chùa”.

Trong một quyển sách chuyên khảo về Phú Quốc bằng Pháp văn (năm 1906), ngôi Chùa Sùng Hưng đã được nhắc đến như sau: “Phú Quốc chỉ có một ngôi chùa ở Dương Đông, nơi đây người An Nam, người Tàu, người Minh Hương không phân biệt, đến cúi lạy và cầu nguyện”

Đến nay vẫn chưa biết được chính xác năm thành lập cũng như pháp danh, thế danh và hành trạng của những đời Trụ trì đầu tiên của Chùa Sùng Hưng mà chỉ tạm biết rằng Chùa được xây dựng hợp nhất vào cuối thế kỷ XIX, các đời Trụ trì thứ 5 và thứ 6 là Hòa thượng Thích Đạt Vĩnh và Hoà thượng Thích Minh Khiêm đều thuộc dòng thiền Lâm Tế đời thứ 38.

Đến khoảng đầu thập niên 20 của thế kỉ XX, Hòa thượng Tịnh Nghĩa được tông phong tại Tổ đình Quan Âm (Hồng Ngự) cử ra đảo giữ mối đạo Cổ Sơn Môn. Hoà thượng Tịnh Nghĩa cho trùng tu Chùa lần đầu vào năm 1924 và đảm nhiệm Trụ trì đời thứ 7 của Chùa. Sư viên tịch ngày Rằm tháng Hai năm 1946 Bính Tuất, thọ 61 tuổi. Đồ chúng lập Tháp thờ Sư trong khuôn viên Chùa.

Kế vị trụ trì là Hòa thượng Thích Huệ Chánh (thế danh Đinh Văn Dần). Năm 1960, Sư cho đại trùng tu các công trình Phật sự trong chùa với mái lợp ngói âm dương và tường gạch giúp cho Chùa thêm vững chắc và trang nghiêm, đồng thời cũng nhằm góp thêm cho đồ chúng được có nơi tu tập.

Do niên cao lạp trưởng nên Hòa thượng Huệ Chánh đã thâu thần thị tịch vào mồng 2 tháng Mười Một năm 2007. Kế vị Trụ trì đời thứ 9 của Chùa là Yết ma Huệ Thông (Sư đã quy tây ngày 12/03/Ất Mùi 2023). Hiện nay, Tỳ kheo Huệ Minh được tấn cử đảm nhiệm quản lý và trông coi Phật sự của Chùa.

Chùa Sùng Hưng nằm trên một ngọn núi gần trung tâm phường Dương Đông. Cổng Chùa quay về hướng Bắc, nhìn ra chợ, ngay đường cái, trãi dài trên một diện tích rộng lớn từ chân lên đỉnh núi.

Kiến trúc cổ kính của ngôi Chùa được đặt trong tổng quan hết sức hài hoà: lên cao dần theo từng bậc thang, xung quanh cây cối xanh tươi, tường rào bao bọc, kết hợp theo phong cách dân gian với “trước miếu, sau chùa”.

Từ khi khởi dựng cho đến nay, Chùa đã trải qua hai lần trùng tu lớn vào năm 1924 và 1960.

Theo thứ tự từ ngoài và trong có:

Bên ngoài là tường rào có Tam quan cao ráo, đường bệ, lợp ngói hình lượn sóng và trang trí phù điêu lưỡng long tranh châu. Bên trên cổng có đề tên Chùa bằng chữ Hán và chữ Quốc ngữ: 寺 古 興 崇 – Sùng Hưng cổ tự. Ngoài ra, trên 4 cây cột cũng có đôi câu đối bằng chữ Hán.

Giữa sân có tượng Bồ Tát Quan Âm lộ thiên đứng trên hồ nước, và kế sau là cột cờ. Ngoài ra ở đây còn có miếu thờ bà Chúa Xứ Nương Nương và Anh hùng dân tộc Nguyễn Trung Trực. Phía trước còn có cặp lân ngồi chễm chệ trông thật oai phong. Phía sau nữa là Đại Hùng Bảo Điện được cất trên nền đá cao gần 2m. Hai bên là hai dãy Đông Lang, Tây Lang đối xứng nhau.

Bên trong Chánh điện được bày trí tôn nghiêm theo từng thứ bậc tả hữu, trước sau cùng với hệ thống hoành phi, câu đối được sơn son thếp vàng lộng lẫy; cùng nhiều pho tượng bằng gỗ, đồng và thạch cao được điêu khắc rất tinh xảo.

Điện thờ trung tâm được bố trí theo ba tầng bậc, có bộ Tam Thế Phật được thờ ở tầng trên hết: Tượng A Di Đà ngồi giữa, tượng Đại Thế Chí đứng bên phải, tượng Quan Thế Âm đứng bên trái…Ngoài ra, hai bên chánh điện còn phối thờ Thập Điện Diêm Vương và Ngũ Điện Diêm Vương…Rải rác trên các vách tường là hình ảnh Tây du rất sông động.

Sau Chánh điện là khu Hậu tổ và hậu liêu. Bên hông chùa có Lộ Niết Bàn, men theo các bậc thang lên viếng đài Phật A Di Đà có từ năm 1960. Phía sau là đài Thích Ca nhập diệt được xây dựng vào năm 1988 và các ngôi miếu khác. Khung cảnh ở đây thường mát mẻ nhờ có các cây cổ thụ.

Điểm đặc biệt tại Chùa Sùng Hưng là từ sau ngày Bác Hồ (Chủ tịch Hồ Chí Minh) mất đến nay, các vị Sư Trụ trì và Bổn đạo ở Chùa đều dâng cơm cúng Bác mỗi ngày vào thời cúng Ngọ. Trước năm 1975, việc cúng cơm này được bí mật tiến hành. Được biết, Chùa Sùng Hưng còn là một điểm liên lạc bí mật của lực lượng Cách mạng.

Đọc Thêm Bài 🌵 Thuyết Minh Về Sapa ❤️️17 Bài Văn Giới Thiệu Về Sapa Hay

Bài Văn Thuyết Minh Về Danh Lam Thắng Cảnh Ở Kiên Giang Đền Cổ Dinh Cậu được chúng tôi chọn lọc và chia sẻ đến bạn đọc sau đây.

Phú Quốc- Kiên Giang không chỉ nổi tiếng với Bãi Dài, Bãi Sao mà Dinh Cậu cũng cuốn hút rất nhiều du khách không chỉ vẻ đẹp kỳ thú do thiên nhiên ban tặng mà còn vì sự huyền bí, linh thiêng qua những truyền thuyết xa xưa.

Từ xa chúng ta đã thấy một ngọn hải đăng điểm báo tín hiệu cho tàu bè tại khu vực thị trấn Dương Đông. Dinh Cậu nằm trên một núi đá to sát cạnh một ngọn hải đăng ngay eo biển nơi tàu thuyền qua lại.

Dinh Cậu tọa lạc ở một ví trí khá đẹp hướng ra biển. Dinh Cậu sừng sững hiên ngang trước sóng gió biển khơi, được bao qunah bởi nhưng bãi đá, đỉnh núi được tô điểm bằng một ngôi nhà rêu phong mái ngói cổ kính. Trên nóc có đôi dòng cầu nguyện bằng sứ men lam. Dinh Cậu nằm dưới tán sộp cổ thụ, tuổi hơn thế kỷ, bề rộng như cái lồng xanh cả bốn mùa. Dinh Cậu hiện ra đầy huyền ảo, ấn tượng trước mắt du khách. Có lẻ vì điều đặc biệt này không nơi nào có được nên Dinh Cậu được xem như là biểu tượng đặc trưng của đảo Phú Quốc.

Từ dưới lên đến miếu cổ Dinh Cậu uốn lượn giữa 2 bên vách đá đúng 29 bậc thang, trên đường lên dinh có nhiều miếu thờ nhỏ và hàng rào bê tông vững chãi . Sân miếu được láng xi măng, có đặt bàn thờ Ông Thiên. Bên hành lang di tích là hàng cột được đút bằng xi măng với những câu liễn đắp nổi bằng chữa Hán như:

Tức là:

Dinh Cậu là một miếu cổ đơn sơ, người dân còn có tên gọi khác là Ngôi Miếu Long Vương. Vào thế kỉ thứ 17, tương truyền rằng ngư dân nơi đây kéo nhau ra biển đánh bắt hải sản, nhưng trong chuyến đi đó đã gặp song dữ nên nhiều ngư dân mãi mãi không về, rồi sau đó đột nhiên họ thấy một mỏm đá nổi dần lên nơi cửa biển.

Người dân trên đảo đã cho lập miếu thờ để mong thần linh che chở trước tai ương của biển cả. Và quả nhiên từ sau đó đến nay các chuyến ra khơi đều sóng êm biển lặn. Tin lành đồn xa dần dần hình thành nên tục thờ cúng tại mỏm đá này và đặt tên là Dinh Cậu.

Trước mỗi chuyến ra khơi hay vào dịp Lễ, Tết, người dân đảo lại đến thắp nhang cầu mong cho những chuyến đi biển được bình an. Hàng năm vào ngày 15, 16 tháng 10 Âm lịch tại Dinh Cậu nhân dân mở hội lớn có rất đông người tham dự. Đúng là tại khu vực Dinh Cậu núi đá ở khá đặt biệt có hình thù kỳ quái, có lẽ vì thế mà người dân gọi là nơi “Đất thánh linh thiêng cổ kính ” chăng.

Dinh Cậu cũng chính là biểu tượng của Phú Quốc với Biển-Cát-Nắng-Đá hòa quyện với nhau tạo nên một khung cảnh hữu tình. Tiếng sóng biển lóng lánh như giác bằng hồng ngọc. Dinh Cậu muôn đời vẫn là truyền thuyết bí ẩn, đầy hấp dẫn để du khách thập phương tìm hiểu và khám phá.

Xem Thêm Bài 🌹 Thuyết Minh Về Di Tích Lịch Sử ❤️️17 Bài Văn Mẫu Hay Nhất

Thuyết Minh Về Danh Lam Thắng Cảnh Ở Kiên Giang Nhà Tù Phú Quốc giúp các em có thể học hỏi và trau dồi thêm kiến thức cho mình.

Trại giam Tù binh Chiến tranh Phú Quốc, hay Trại giam Tù binh Cộng sản Phú Quốc là một trại giam nằm tại phường An Thới ở phía nam đảo Phú Quốc. Trong Chiến tranh Đông Dương, trại giam này có tên là Nhà lao Cây Dừa. Đây là trại giam tù binh trung tâm toàn Việt Nam Cộng hòa, từng giam giữ hơn 32.000 tù binh (40.000 tù nhân nếu tính cả tù chính trị nhiều thời kỳ).

Trong Chiến tranh Việt Nam, tù binh chiến tranh tại Trại giam tù binh Phú Quốc đã phải chịu những hình phạt, tra tấn như đóng đinh vào tay, chân, đầu; đốt dây kẽm cháy đỏ đâm vào da thịt, đục răng, trùm bao bố chế nước sôi hoặc đổ lửa than, ném vào chảo nước sôi, thiêu sống, chôn sống… Trong thời gian tồn tại không đầy 6 năm (từ tháng 6/1967 đến 3/1973) trại giam tù binh Phú Quốc, có hơn 4.000 người chết, hàng chục ngàn người bị thương tật tàn phế.

Trại giam Tù binh Chiến tranh Phú Quốc có tất cả là 12 khu (năm 1972) được đánh số từ khu 1 đến khu 12. Riêng khu 13, 14 được xây dựng thêm vào cuối năm 1972. Mỗi khu trại giam có khả năng chứa khoảng 3000 tù nhân. Năm 1972, có khoảng 36 000 tù nhân. Mỗi khu trại giam lại được chia làm nhiều phân khu.

Thường thì có 4 phân khu, trong 1 khu. Một phân khu chứa được 950 tù binh. Riêng phân khu B2 dành riêng để giam giữ các sĩ quan. Tù binh có cấp bậc lớn nhất là Thượng tá. Trại giam Tù binh Chiến tranh Phú Quốc do 3 tiểu đoàn quân cảnh (7, 8, 12) canh giữ.

Ngoài ra, Nhà tù Phú Quốc cũng có một trại giam tù hình sự, giam giữ những tù nhân thường phạm bị kết án 10 năm trở lên, ở phường Dương Đông, mặt tây của đảo.

Hiện tại Nhà tù Phú Quốc là một trong những điểm du lịch lịch sử, nơi ghi lại tội ác của Hoa Kỳ và Việt Nam Cộng hòa.

Chia sẻ cơ hội 💧 Nạp Thẻ Ngay Miễn Phí 💧 Tặng Card Nạp Tiền Ngay Free Mới

Thuyết Minh Về Bún Cá Kiên Giang Chi Tiết – một món ăn đặc sản không thể bỏ lỡ nếu có dịp trải nghiệm vùng đất này.

Ai về Rạch Giá, Kiên Giang. Ăn tô bún cá chứa chan tình người”, câu ca dao trên khiến du khách dễ hình dung thêm phần nào độ nổi tiếng của món đặc sản miền đồng chua nước mặn này Kiên Giang. Món bún cá Kiên Giang là một trong những món đặc sản làm nên tên tuổi của vùng đất này.

Du khách mỗi khi có dịp đến với Kiên Giang đều được nơi đây “thết đãi” toàn đặc sản, sẽ là một thiếu sot lớn nếu bạn bỏ qua món bún cá bình dị mà dân dã này. Chắc hẳn mọi người sẽ nghĩ bún cá Kiên Giang lấy cá biển làm nguyên liệu, vì ở đây thứ dồi dào nhất chính là thủy hải sản. Nhưng không, món bún cá bình dị này có nguyên liệu cũng bình dị nốt.

Bún cá Kiên Giang được chế biến từ những con cá lóc to tròn trên các cánh đồng ruộng, trên các con sông nhỏ. Bởi sinh trưởng ở đồng ruộng nơi nước ngọt nên thịt cá lóc rất thơm, dai chứ không hề bở.

Cá lóc sau khi bắt về cần làm sạch, ướp muối, đánh sạch vảy rồi cắt thành 3 khúc, làm sạch bao tử, tách đầu thật khéo léo để lấy luôn được bộ lòng cá ra. Bước sơ chế cần làm cẩn thận, tỉ mỉ để khử tạch mùi tanh của cá. Nếu làm vỡ mật và gan cá, cá sẽ bị đắng. Sau khi sơ chế xong thì bỏ cá vào nồi luộc đợi cá chín rồi gỡ riêng phần thịt cá, xương cá để giã nát.

Bỏ vào túi lọc lại một lần nữa rồi cho vào ninh với xương heo. Vị thanh ngọt tự nhiên của cá cùng vị đậm đà của xương heo đã tạo nên hương vị nước lèo có một không hai cho món bún cá Kiên Giang.

Bún cá Kiên Giang thường ăn kèm với tôm bạc thẻ, tôm sắt hoặc tép đất tùy vào yêu cầu của từng khách hàng. Tôm hoặc tép trước khi cho vào rang vàng thì cần đem rửa sạch, lột vỏ, bỏ đầu, ướp cùng với muối, hạt tiêu, tỏi cho vị đậm đà thơm ngon.

Bún cá khi múc ra tô tỏa khói nghi ngút thật hấp dẫn biết bao. Người chế biến khéo tay còn cho thêm giá đỗ, hành hoa, thả tôm hoặc tép vàng ươm vào trong tô trông thật hấp dẫn. Có thể ăn kèm thêm một số loại rau sống nữa nếu bạn muốn. Tô bún cá Kiên Giang còn hấp dẫn người ăn nhờ phần trứng cá được đánh vàng ươm trên bề mặt. Nếu vào mùa cá có trứng, người dân nơi đây như được trúng mánh còn vào mùa cá không trứng, trứng cá sẽ được thay thế bằng lòng đỏ trứng gà pha với tôm tươi bằm nhuyễn, đánh tơi và hấp chín.

Món ăn bình dị và mộc mạc này không chỉ rất ngon miệng mà còn đẹp mắt. Điều đặc biệt là hầu hết du khách tới đây đều chọn những quán vỉa hè để thưởng thức món bún cá này. Có lẽ vì sự dân dã của món ăn nên người ta muốn tới những quán bình dị, cảm giác vừa ăn tô bún cá nóng hổi vừa ngắm thành phố người qua kẻ lại cũng thật thi vị và gần gũi.

Thưởng thức món này thì phải tùy khẩu vị của mỗi người để điều chỉnh độ mặn nhạt. Muốn hương vị thêm đậm đà thì nhất định phải chọn nước mắm Phú Quốc thì mới đúng vị bún cá nơi này. Nếu có dịp đặt chân đến Kiên Giang, bạn nhất định phải nếm thử món bún cá. Bún cá Kiên Giang bình dị hấp dẫn chính là linh hồn của vùng đồng quê sông nước quê hương đất Việt. Thưởng thức món bún cá Kiên Giang, bạn sẽ đi hết từ ngạc nhiên này đến ngạc nhiên khác, rồi sẽ xuýt xoa, trầm trồ khen ngợi món ăn bình dị gần gũi này.

Hướng Dẫn Cách Nhận 🌼 Thẻ Cào Miễn Phí 🌼 Nhận Thẻ Cào Free Mới Nhất

Văn Mẫu Lớp 8: Thuyết Minh Về Đặc Sản Của Quê Hương Em Dàn Ý &Amp; 18 Bài Văn Hay Lớp 8

1. Mở bài

Giới thiệu chung: Mỗi vùng quê trên đất nước ta đều có đặc sản của quê mình. Ví dụ: Huế có mè xửng, cơm hến, Quảng Nam có mì Quảng, Hà Nội có phở.

Giới thiệu về đặc sản của quê hương.

2. Thân bài

Nguồn gốc của món ăn: Món ăn xuất hiện khi nào, công thức đầu tiên do ai nghĩ ra…

Cách làm món ăn: Nguyên liệu, cách chế biến, cách nấu…

Giá trị của món ăn đối với nền ẩm thực Việt Nam: nét văn hóa độc đáo, phong phú cho ẩm thực Việt…

3. Kết bài

Cảm nhận nói chung về đặc sản của quê hương.

Từ lâu, vùng đất cố đô Huế đã hình thành một không gian văn hoá ẩm thực độc đáo, tinh tế, có sức hấp dẫn mạnh mẽ. Các món ăn kiểu Huế khá cầu kì do chịu ảnh hưởng của văn hoá cung đình và kiểu cách của con người xứ Huế, chú trọng thưởng thức chứ không cốt để ăn cho no, bữa ăn hoặc bữa tiệc, cổ bàn được trình bày mỗi món một chút chút chứ không bày thịnh soạn, la liệt. Bản sắc ẩm thực Huế đã lan toả khắp cả nước với những món ăn đậm đà chất Huế như bún bò Huế, bánh bèo, bánh nậm, bánh lọc, bánh in, cơm hến, chè đậu ván, chè đậu xanh, chè bột lọc (bày bán bình dân ở hẻm đường), bia Huda… Trong đó, bún bò Huế là món ăn có sức phổ biến rộng rãi nhất, trở thành đặc trưng văn hoá ẩm thực Huế.

Bún bò là một trong những đặc sản của xứ Huế, mặc dù món bún này phổ biến trên cả ba miền ở Việt Nam và cả người Việt tại hải ngoại. Bún bò Huế xưa ra đời từ thời chúa Nguyễn Hoàng (khoảng thế kỷ thứ 16). Tương truyền, xưa có cô gái ở làng Vân Cù (nay thuộc thị xã Hương Trà, tỉnh Thừa Thiên Huế) xinh đẹp, giỏi giang, thạo nghề đã sáng tạo ra cách chế biến một món ăn mới: Lấy thịt bò nấu thành nước dùng cho món bún. Từ đó, món bún bò ra đời, được lưu giữ và phát triển qua nhiều thế hệ.

Tại Huế, món này được gọi đơn giản là “bún bò” hoặc gọi cụ thể hơn là “bún bò thịt bò“. Các địa phương khác gọi là “bún bò Huế”, “bún bò gốc Huế” để chỉ xuất xứ của món ăn này. Món ăn có nguyên liệu chính là bún, thịt bắp bò, giò heo, chả Huế, nạm bò,… cùng nước dùng có màu đỏ đặc trưng và vị sả và ruốc. Đôi khi tô bún còn được thêm vào thịt bò tái, chả cua, và các loại nguyên liệu khác tùy theo sở thích của người nấu. Người ăn có thể ăn theo sở thích của mình. Nếu muốn thưởng thức vị thanh tao của nước lèo và hương vị thịt bò, hãy ăn món tái. Nếu muốn hoà mình trong hương vị nồng nàn của hương quế, cái thơm ngon của chả Huế, để thịt bò thắm đượm trong miệng khi ăn, hãy gọi món nạm hoặc gàu gân.

Trong nước dùng của bún, người Huế thường nêm vào một ít mắm ruốc, góp phần làm nên hương vị rất riêng của nồi bún bò Huế. Sau khi xương bò được hầm chín tới, người ta thường thêm vào một ít chả heo hay chả cua được quết nhuyễn. Thịt bò có thể được cắt mỏng, nhúng vào nước dùng đang sôi trước khi cho vào tô bún (gọi là thịt bò tái). Người ta cũng thường cho thêm một ít ớt bột và gia vị vào tô bún rồi ăn với rau sống gồm giá, rau thơm, xà lách, rau cải con, bắp chuối cắt nhỏ.

Bún bò nấu chuẩn vị và ngon miệng, yếu tố quyết định trước hết nằm ở quá trình nấu nước dùng, cũng như chọn lựa sợi bún sao cho phù hợp, tươi ngon nhất. Với nước dùng, tiêu chuẩn chung là phải ngọt, trong – mang vị thanh dịu của xương thịt hầm đúng độ. Bên cạnh đó, tô bún bưng ra hấp dẫn được thực khách, còn phụ thuộc vào sợi bún. Nguyên liệu bún nấu luôn là loại bún tươi sợi lớn, trắng trơn, dai ngon. Bún Huế ‘cổ điển’ được ưa chuộng chính bởi bí quyết kết hợp nhào bột gạo chung với ít bột lọc; giúp cho từng sợi bún thành hình có tính dai dẻo đặc thù, sắc trắng sáng tự nhiên, không đục màu. Khi ăn, nhâm nhi miếng bún, người thưởng thức dễ thấy ngay cái mềm mại, bùi ngon nhưng không hề gây ngán. Có được nước dùng cùng với sợi bún “chất lượng.” là đã đủ 7 trên 10 thành tố tạo nên sản phẩm bún bò Huế ngon đúng điệu. Gia vị truyền thống, ruốc, sả, dầu điều, tiết canh, ớt, rau thơm, giá trộn ăn kèm tươi sống – thêm vào lượng vừa phải; đóng vai trò quan trọng còn lại, góp phần hoàn thiện và làm tròn đầy giá trị của tô bún dân dã mà quyến rũ về phong vị.

Người Huế có thể ăn bún bò mọi lúc, cho mọi bữa trong ngày. Nhưng cái thú, cũng được xem như một thói quen từ lâu của họ, là dùng bún như món ăn sáng ngon bổ. Sớm tinh mơ ở cố đô, dạo quanh một dãy phố hãy còn phủ sương lạnh, bạn có thể dễ dàng trông thấy vài gánh bún bò đơn sơ, nghi ngút khói. Các o, các mệ bán bún rảo bước nhẹ nhàng với quang gánh mộc mạc trên vai, rồi âm thầm đặt gánh xuống nơi góc đường quen thuộc. Ai thèm ăn cứ việc lấy chiếc ghế nhỏ ngồi quanh gánh bún nóng hổi, chuyện trò rôm rả trong khi đợi đến lượt gọi món. Tất cả làm nên một hình ảnh thân thuộc về Huế, như góp phần phản ánh nếp sống dung dị, đã “bắt nhịp” từ trăm năm trước.

Có thể nói, một món ăn đầy đủ vị cay, thơm, ngọt, béo như bún bò Huế chính là đại diện tiêu biểu cho linh hồn của ẩm thực xứ Huế – một vùng đất đôn hậu, hiền hòa nhưng lại ẩn chứa những giá trị đậm đà bản sắc văn hoá cố đô. Ấn tượng lẫn vẻ đẹp ẩm thực tiêu biểu – hiện diện nơi tô bún bò, là nét kết hợp đầy lý thú của nghệ thuật chế biến truyền thống, cùng hương vị chan chứa đậm đà mà vẫn thanh tao, dung hòa hoàn hảo.

Món canh chua cá lóc vốn là một món ăn quen thuộc, gắn bó với văn hóa ẩm thực của người Việt Nam. Ở từng địa phương khác nhau thì món canh chua cá lóc lại được chế biến với những cách thức khác nhau, thể hiện được những nét đặc trưng về ẩm thực của từng vùng miền. Khái niệm canh chua cá lóc được sử dụng phổ biến hơn ở khu vực Nam Bộ.

Món canh chua cá lóc của người Nam Bộ có hương vị đặc trưng đó là vị chua và vị ngọt. Cái tinh tế của món ăn này là vị chua không quá gắt mà chua dịu, khi ăn mang đến cảm giác thoải mái, nhẹ nhàng, vị ngọt của canh cũng không quá đậm mà chỉ ngọt nhẹ, hai hương vị này kết hợp với nhau đã tạo nên được nét đặc trưng cho món canh chua cá lóc.

Để làm món canh chua cá lóc cũng rất đơn giản trước hết là việc chuẩn bị nguyên liệu. Trước hết không thể thiếu được cá lóc, bên cạnh đó cần chuẩn bị những loại nguyên liệu khác như: cà chua, bạc hà, đậu bắp, một quả dứa, giá đỗ, me chua, rau mùi, ớt, sả, tỏi. Những gia vị cho món canh chua cá lóc bao gồm: đường, mắm, dầu ăn, bột ngọt, hạt nêm.

Để chế biến món canh chua cá lóc thì bước đầu tiên cần làm sạch cá lóc, sau đó ướp qua với các gia vị như: muối, ớt, bột ngọt để cho cá ngấm gia vị và bớt mùi tanh. Những loại nguyên liệu như: đậu bắp, rau bạc hà thì cần rửa sạch, xắt thành khúc vừa ăn, cà chua xắt theo múi, dứa và ớt xắt lát. Me dầm lấy nước, đối với me chín thì có thể tách vỏ và lấy phần thịt me, loại bỏ hạt.

Tiếp đó, cho me nấu với một bát nước để me tan. Ăn kèm với món canh chua cá lóc có món rau sống và giá đỗ, nên nhặt sạch giá đỗ, để ráo nước, những loại rau khác nhặt sạch, ngắt lấy phần non, đối với đậu bắp thì xắt lát, bạc hà tước vỏ…

Đặt nước lên bếp, cho nước me vào đun sôi, khi nước sôi cho cá lóc vào nấu chín, sau đó cho thêm dứa, đậu bắp, cà chua, lá bạc hà và tắt bếp. Tùy theo sở thích của mỗi gia đình mà có thể nêm nếm cho món canh chua cá lóc cho phù hợp. Bước cuối cùng là trình bày món ăn.

Canh chua cá lóc cho ra bát, để cho món ăn đúng vị và được trang trí đẹp mắt hơn thì có thể rắc lên trên món ăn rau mùi, ớt xắt lát và tỏi phi lên bên trên. Ăn kèm với món canh chua cá lóc là bún hoặc cơm, tùy theo khẩu phần ăn của từng người mà có sự lựa chọn khác nhau.

Món canh chua cá lóc rất thích hợp ăn trong những ngày hè nắng nóng, vị chua dịu của cạnh giúp bạn xua đi cái nóng, mang đến cảm giác ngon miệng cho bữa cơm gia đình. Món canh chua cá lóc khi ăn cùng cơm trắng và món thịt kho nước dừa hay cá kho sẽ mang đến cảm giác vô cùng đặc biệt.

Cách thức làm món canh chua cá lóc rất đơn giản, vì vậy mà ai cũng có thể tham khảo và nấu cho gia đình một món canh chua cá lóc đúng vị. trong những ngày hè,món canh chua cá lóc không chỉ xua đi cái nóng mà còn gắn kết tình cảm của những người thân trong bữa ăn gia đình.

Trên mâm cơm hàng ngày thường có ba món: món canh, món mặn, món xào. Món canh thì rất phong phú, đa dạng như canh rau tập tàng, canh bí đỏ, canh cải nấu cá thác lác… Nhưng món canh ăn hoài không biết chán, có mặt thường xuyên trên mâm cơm của người Nam bộ là món canh chua.

Tương tự gỏi chua, canh chua là món có nước nhưng vẫn mang đủ hương vị chua chua, ngòn ngọt, thơm thơm, rất dễ ăn.

Đi làm việc về, trời trưa nắng chang chang, được người thân nấu cho tô canh chua vừa miệng, còn gì thích hơn. Mùa đông trời lạnh, ăn canh chua ấm lòng.

Mùa Thu trời ui ui, ăn canh chua đỡ buồn. Có khách sang trọng đãi món canh chua cá bông lau, khách cũng thích. Gặp đứa bạn thân, nấu lẩu chua cá điêu hồng nó “ô kê” liền. Nuôi người thân già yếu, miệng mồm lạt lẽo khó ăn, nấu tô canh chua lươn cho ngọt, ăn được chén cơm, mau hết bệnh.

Tuy là món ăn hàng ngày nhưng muốn nấu ngon phải biết nêm nếm vừa miệng và rau đệm biết dùng đúng cách. Chẳng hạn, lâu lươn nấu với bắp chuối mới đúng điệu. Cá lóc, cá thác lác… nên có rau chút, cà bắp, thơm. Cá linh nấu với bông điên điển hay bông so đũa… Chất chua có thể là me vắt, me trái, lá giang, lá me, khế chua hoặc cơm mẻ… Chất chua muốn dịu thì phải có khóm, cà chua, lá giang có vị chua dịu hơn me. Cơm mẻ là cơm nguội để lên men, tạo nhiều vi sinh, chất lên men chua rất dịu, dùng nấu canh chua lươn, luộc thịt trâu, thịt chó,…

Rau bổi bỏ vào cũng phải theo thứ tự, lớp lang, rau nào lâu chín cho vào trước, có loại nấu lâu sẽ dai, mất ngon như rau nhút, kèo nèo… Có quá nhiều rau bổi để nấu canh chua, mỗi món có hương vị riêng, có cách nấu riêng, tùy theo ý thích mà pha chế. Nông thôn thì có bắp chuối, chuối cây, bông điên điển, so đũa, kèo nèo, đọt choại, rau ngổ, rau muống, rau nhút… Ở chợ có giá sống, bạc hà, cà chua, khóm, rau muống,… Rau thơm như ngò gai, rau om, rau quế góp phần làm cho nồi canh chua có mùi thơm rất riêng, rất hấp dẫn.

Món lẩu chua để đãi khách nấu khá công phu. Phải lấy nước ngọt từ xương heo, xương gà để làm nước súp, sau đó luộc cá điêu hồng hay cá bông lau cho chín rồi vớt ra, nếu dùng hải sản thì tôm, mực tươi, cá thác lác vo viên xếp sẵn trên đĩa, ăn tới đâu nhúng tới đó. Rau bổi cũng vậy, không để sôi lâu vừa mất chất, vừa mất ngon, thỉnh thoảng bỏ vào lẩu hành phi, ớt và rau thơm để giữ vị thơm của món ăn. Nước lẩu pha cho đúng vị chua, ngọt (không chua quá mà cũng không ngọt quá, ngược lại, pha lơ lớ ăn rất chán, không ra mùi vị gì cả).

Ở miền Tây, khi trời vừa sa mưa là mùa của cá linh, lẩu chua cá linh bông điên điển là món ăn khoái khẩu nhất. Cả nhà xúm xít quanh cái lẩu bốc hơi nóng, nước lẩu được các bà nội trợ pha chế độ chua ngọt rất vừa miệng, rồi thì rổ rau đồng gồm bông điên điển, kèo nèo, rau muống… được nhúng vào cùng với những con cá linh trắng phau, mềm ụm, béo ngậy. Chẳng mấy chốc mà rổ rau vơi dần và nồi cơm gạo mới cùng cạn đáy.

Lẩu chua ăn với bún, canh chua ăn với cơm, canh chua thường kèm với món cá rô kho tộ, nếu không có cá kho tộ thì ăn với tép rang thịt ba rọi cũng được. Vừa qua, có cuộc thi đầu bếp giỏi do các nhà hàng lớn trong thành phố tổ chức, món canh chua bông điên điển đã đứng đầu bảng. Thế mới biết, món ăn đứng hàng “top ten” không phải “nem công, chả phụng” mà có khi chỉ là những món ăn quen.

Khi nói đến món thịt kho tàu là món ăn quen thuộc hàng ngày nhưng cũng là một món ăn truyền thống vào dịp Tết nhất. Hầu hết mọi gia đình Việt Nam từ Bắc chí Nam đều chuẩn bị một nồi thịt kho thật lớn vào những ngày 29, 30 cuối năm, để dành ăn dần qua đến hết mồng Ba, mồng Bốn Tết.

Và đặc biệt là những miếng thịt heo kho trong dịp này thường được cắt lớn gấp ba lần miếng thịt kho ngày thường. Thịt kho, dưa giá, củ kiệu tôm khô, bánh chưng bánh tét… đều là những món ăn “kinh điển” trong những ngày Tết Việt Nam. Thịt kho có thể để lâu, nên hâm nóng sau khi ăn và lúc sáng sớm.

Dám chắc rằng rất nhiều người cũng nhầm tưởng rằng tên món này xuất phát từ Trung Quốc, là của người Tàu.

Nhưng rồi tôi cứ thắc mắc rằng ít khi thấy người Tàu ăn món này, mà nguyên liệu để dùng cho món thịt kho tàu, là thịt ba rọi, cái loại thịt có cả nạc, cả mỡ, cả bì, xếp từng lớp khéo léo cứ như người ta cố tình tạo ra nó, thì chắc chỉ có dân Việt.

Mãi cho đến khi đọc tài liệu về thịt kho tàu, mới thấy có cách giải thích hợp lý hơn cả: theo ông nhà văn Nam Bộ Bình Nguyên Lộc, chữ “tàu”, ở đây, theo nghĩa của người “miền dưới” là “lạt”, như sông Cái Tàu Thượng, sông Cái Tàu Hạ là hai con sông nước lợ. Như vậy thịt kho tàu không phải là thịt kho của người Trung Hoa, mà chỉ đơn giản là món thịt kho lạt.

Cũng có thuyết rằng, món thịt kho bên Tàu từ cái ông tể tướng Vương An Thạch đời Tống nghĩ ra, nhưng xem lại thì cái món thịt kho của ông, chả giống gì cái cách mà chúng ta thấy ở miếng thịt kho tàu xứ Việt.

Vậy hóa ra cái món thịt kho mà được cả Bắc Nam hâm mộ ấy, đúng như lời giáo sư Trần Văn Khê nói: món thịt kho “tàu” hóa ra lại là “ta” hoàn toàn, món Việt trăm phần trăm.

Thịt kho tàu, cùng với bánh tét, dưa hấu, canh khổ qua dồn thịt, đã trở thành món không thể thiếu trong thực đơn ngày Tết của người Nam Bộ.

Miếng thịt mềm rục có cả màu đỏ au của thịt nạc, trong trong của mỡ, nâu nâu của bì hầm nhừ, sóng sánh vàng ươm của nước màu chưng đường, kèm vị bùi của nước dừa xiêm, vị mặn của nước mắm đã được làm thanh đi bằng đường, thi thoảng có thêm vị hắc của chút xì dầu, điểm xuyết thêm mấy hột vịt luộc mà nước thịt ngấm đều từ trong lòng đỏ đến lòng trắng, đặt cạnh bát cơm trắng thơm nức trên bàn thờ ông bà, bên cạnh đĩa dưa chua, dường như đã thành truyền thống trong mâm cơm cúng tưởng nhớ ông bà tổ tiên.

Ở ngoài Bắc, có lẽ để phù hợp với khí hậu lạnh, món thịt kho tàu đã được thay thế bằng đĩa thịt đông trong mâm cơm cúng ngày Tết. Tuy nhiên trong bữa ăn hằng ngày mùa lạnh, thì món thịt kho tàu vẫn là một trong những món được ưa chuộng nhất.

Thịt kho tàu ở ngoài Bắc, ít có nước dừa xiêm, nhưng vẫn không thể thiếu vị hành khô, nước mắm, vị của đường cháy tạo ra vị hơi ngọt, làm giảm cái mặn khát của các món kho thông thường, tạo màu vàng óng cánh gián quyến rũ.

Thịt kho tàu cũng như bao món kho khác, được nấu như món ăn để lưu trữ dài ngày. Nấu thịt kho tàu không khó, nhưng để nấu ngon, cũng không dễ chút nào. Miếng thịt mềm nhừ mà không nát, không bị quắt lại, màu thịt đỏ au ánh lên màu cánh gián, trứng vịt thấm đẫm nước thịt mà không đen, nước thịt vàng trong, không quá lõng bõng nước nhưng cũng không quá cạn làm khô miếng thịt.

Mỗi lần ăn có thể mang ra đun lại, càng nhiều lửa, thịt càng rục, càng mềm, càng ngon. Thịt kho tàu có thể được ăn với nhiều món, cơm trắng, dưa kiệu, dưa giá nhưng có lẽ phổ biến nhất là ăn kèm với dưa cải chua. Có lẽ vì mặn, vị ngọt, vị bùi béo của thịt kho tàu kết hợp với vị chua xen lẫn cay cay của dưa cải muối xối, tạo nên hương vị quyến rũ đến bất ngờ.

Nước thịt kho tàu chấm dưa cải, hay rưới vào bát cơm gạo mới nóng hổi, không cần ăn thêm gì cũng thấy ngon. Không chỉ có vì bùi béo của thịt, nước thịt kho ngấm vào trứng luộc đã bóc vỏ, tạo nên vẻ quyến rũ lạ kỳ cho quả trứng, khác hẳn với vị ngán rất khó nuốt của trứng luộc thông thường.

Có một món nữa chắc sẽ làm xiêu lòng người thích thịt kho tàu, là xôi trắng ăn với thịt kho tàu. Buổi sáng, làm bát xôi trắng, với mấy miếng thịt kho tàu, chan ít nước thịt kho tàu lên, đảm bảo chắc dạ đến trưa.

Người Nam bộ còn có món bánh tráng ăn với thịt kho tàu, vừa là món ăn chơi, nhưng khi kèm với thịt kho tàu, nó cũng trở thành món chính từ lúc nào. Miếng bánh tráng trụng qua nước, gói với rau thơm, đồ chua, kèm thịt, nhúng vào bát nước thịt đã dầm trứng, nêm thêm ít chanh với vài lát ớt cay, vừa ăn vừa xuýt xoa, còn gì bằng!

Cách làm thịt kho tàu

Nguyên liệu:

Thịt bắp đùi heo: 1.5 kg

Trứng vịt: 10 quả

Hành tím: 4 củ

Dừa xiêm: 2 quả

1 củ tỏi, 5 quả ớt

Cách làm:

Thịt cạo rửa sạch, để ráo nước, thái miếng to, vuông khoảng 4-5cm.

Ướp gia vị vào thịt để hai giờ cho thấm.

Xào thịt cho săn lại. Cho 1/2 thìa cà phê nước màu, 1/2 chén nước mắm. Khi nước mắm và thịt sôi lên, đổ nước dừa vào nồi.

Trứng vịt luộc chín bóc vỏ, cho vào nồi. Thả ớt vào kho chung.

Đun nhỏ lửa, hớt bọt cho đến khi thật mềm là được.

Có lần một chị bạn thốt lên với tôi “Sao đàn ông ông nào cũng thích ăn thịt kho tàu vậy ta ?”. Tất nhiên không chỉ đàn ông, mà rất nhiều người thích ăn thịt kho tàu, nhưng bảo là đàn ông ăn thịt kho tàu cũng có lý của nó.

Không biết có ai đó nói với tôi rằng, dường như có cái gì đó liên tưởng giữa cái vị mềm mềm, ngọt thanh thanh dìu dịu của miếng thịt kho tàu với sự dịu dàng, giản dị trong tính cách của người phụ nữ trong gia đình.

Có thể người đó vì yêu món thịt kho Tàu mà nói quá lên đó thôi, nhưng rõ ràng là không phải là không có lý. Và có lẽ vì thế mà hầu hết đàn ông Việt, đều thích món thịt kho tàu chăng?

Mỗi vùng quê trên đất nước ta đều có đặc sản của quê mình. Và bánh đa cua là một đặc sản trong nét ẩm thực của Hải Phòng.

Nguyên liệu chính của món bánh đa là: bánh đa sợi và cua đồng. Ở Hải Phòng có rất nhiều nơi làm bánh đa sợi. Nhưng nổi tiếng nhất vẫn là ở Dư Hàng Kênh, quận Lê Chân và chợ Hỗ, huyện An Dương. Bánh đa được làm bằng thứ gạo ngon, xay thành bột mịn và tráng cho mỏng đều, phơi vừa khô thì cắt ra thành sợi. Còn đối với cua thì phải là cua đồng, cua phải béo thì mới ngon. Ngoài ra còn có rất nhiều nguyên liệu, gia vị dùng để nấu nước riêu cua: xương ống lợn, tôm nõn, me, bột nêm, muối, dầu ăn, mắm tôm, tỏi khô, hành khô, cà chua, hành phi. Cùng với đó là một số loại rau ăn kèm được cho vào bát bánh đa (rau rút, rau cần, rau muống).

Một bát bánh đa cua ngon, kỳ công nhất là ở nước dùng. Sau khi rửa cua sạch, thì bắt đầu chế biến: tách mai ra, lấy phần thân cua và gạch cua. Sau đó đem thân cua thì giã cho mịn, cho nước vào khuấy đều để thịt cua tan ra, lọc lấy nước cua cho vào nồi. Sau khi nêm nếm gia vị cho vừa phải thì cho nước phần nước cua vào. Khi nấu canh cua, cần phải để nhỏ lửa.

Bánh đa sau khi cho vào bát. Sau đó đầu bếp sẽ bắt đầu sắp xếp các món ăn kèm lên trên. Bánh đa cua còn được ăn kèm với rất nhiều món phụ khác. Nếu là một bát bánh đa cua thập cẩm sẽ có tôm (loại tôm sông, tôm bể nhỏ), thịt lợn xào mộc nhĩ, chả lá lốt, hoặc mấy cái chả cá nhỏ như đồng xu và mấy miếng chả thịt lợn. Tùy theo sở thích của từng vị khách mà bát bánh đa sẽ có từng ấy món ăn kèm. Cuối cùng là chan phần nước dùng được chế biến trước đó vào tô. Vậy là đã có một bát bánh đa cua vô cùng hấp dẫn.

Món bánh đa cua phải ăn kèm với rau sống. Gồm có rau muống lá liễu, hoặc rau cần chần tái, hành tươi và rau rút (rau nhút). Cùng với đó là các gia vị như: ớt tươi, hạt tiêu, dấm tỏi, tương ớt, chanh hoặc quất… Tất cả tùy thuộc vào khẩu vị của người ăn mà tự nêm nếm sao cho phù hợp nhất.

Một bát bánh đa cua nóng hổi, màu sắc đẹp mắt sẽ khiến thực khách không thể nào từ chối. Đối với người dân Hải Phòng, món ăn này đã trở thành đặc sản mà ai đi xa khi trở về cũng đều muốn được thưởng thức.

Đặc sản Hà Nội có nhiều, Hà Nội là địa điểm nổi tiếng với ẩm thực hấp dẫn, không chỉ đối với du khách nước ngoài mà còn lôi cuốn người Việt Nam. Nhưng nhắc đến món ăn Hà Nội là người ta nhắc đầu tiên đến phở. Phở như một thứ đại diện mang tính bản sắc, đặc thù của món ăn Hà Nội. Lý do thật đơn giản phở Hà Nội khác hẳn các nơi khác, nó không thể trộn lẫn với bất cứ một thứ phở nơi nào, cho dù ở đó người ta đã cố tình trương lên cái biển Phở Hà Nội.

Không biết, phở Hà Nội có tự bao giờ, chỉ biết rằng, phở đã đi vào trang viết của rất nhiều nhà văn như: Nguyễn Tuân, Thạch Lam, Băng Sơn hay Vũ Bằng,… Phở, dưới những ngòi bút ấy, gần như chẳng còn ai có thể tả hay hơn nữa, và cũng chẳng cần ai phải tốn công mà viết thêm về Phở nữa vì nó đã quá đủ đầy, đã quá nổi tiếng rồi.

Và cũng không biết từ bao giờ phở đã trở thành món ngon nổi tiếng và khi thưởng thức phở ở Hà Nội người ta mới thấy được hương vị truyền thống. Phở Hà Nội là một món ăn đặc biệt của người Hà Nội đã có từ rất lâu.

Thạch Lam trong “Hà Nội ba 36 phố phường” viết: Phở là một thứ quà đặc biệt của Hà Nội, không phải chỉ riêng Hà Nội mới có, nhưng chính là vì chỉ ở Hà Nội mới ngon”. Phở ngon phải là phở “cổ điển”, nấu bằng thịt bò, “nước dùng trong và ngọt, bánh dẻo mà không nát, thịt mỡ gầu giòn chứ không dai, chanh ớt với hành tây đủ cả”, “rau thơm tươi, hồ tiêu bắc, giọt chanh cốm gắt, lại điểm thêm một ít cà cuống, thoảng nhẹ như một nghi ngờ”. Vào thời những năm 1940, phở đã rất phổ biến ở Hà Nội: “Đó là thứ quà ăn suốt ngày của tất cả các hạng người, nhất là công chức và thợ thuyền. Người ta ăn phở sáng, ăn phở trưa và ăn phở tối….

Nguyễn Tuân, nhà văn của “Vang bóng một thời” đã có một tùy bút xuất sắc về phở. Ông cho phở có một “tâm hồn”, phở là “một miếng ăn kỳ diệu của tất cả người Việt Nam chân chính”. Cố đạo diễn điện ảnh Phạm Văn Khoa lúc sinh thời kể rằng, có lần ông cùng Nguyễn Tuân đang ăn phở, một người yêu thích nhận ra nhà văn bước lại chào nhưng Nguyễn Tuân vẫn vục đầu vào ăn. Người kia chắc chắn mình không nhầm đã kiên trì chờ đợi. Hết tô phở Nguyễn Tuân mới ngẩng mặt lên bảo “Tôi đang thưởng thức nên không trả lời, anh thứ lỗi”. Nhà văn không dùng chữ ăn mà dùng chữ thưởng thức.

Phở được dùng riêng như là một món quà sáng hoặc trưa và tối, không ăn cùng các món ăn khác. Nước dùng của phở được làm từ nước ninh của xương bò: xương cục, xương ống và xương vè. Thịt dùng cho món phở có thể là bò, hoặc gà. Bánh phở phải mỏng và dai mềm, gia vị của phở là hành lá, hạt tiêu, giấm ớt, lát chanh thái. Phở luôn phải ăn nóng mới ngon, người Hà Nội còn ăn kèm với những miếng quẩy nhỏ. Tuy nhiên, để có được những bát phở ngon còn tùy thuộc vào kinh nghiệm và bí quyết truyền thống của nghề nấu phở.

Trong món phở Hà Nội công đoạn chế biến nước dùng, còn gọi nước lèo, là công đoạn quan trọng nhất. Nước dùng của phở truyền thống là phải được ninh từ xương ống của bò cùng với một số gia vị. Xương phải được rửa sạch, cạo sạch hết thịt bám vào xương cho vào nồi đun với nước lạnh. Nước luộc xương lần đầu phải đổ đi để nước dùng khỏi bị nhiễm mùi hôi của xương bò, nước luộc lần sau mới dùng làm nước lèo. Gừng và củ hành đã nướng đồng thời cũng được cho vào.

Lửa đun được bật lớn để nước sôi lên, khi nước đã sôi thì phải giảm bớt lửa và bắt đầu vớt bọt. Khi đã vớt hết bọt, cho thêm một ít nước lạnh và lại đợi nước tiếp tục sôi tiếp để vớt bọt…Cứ làm như vậy liên tục cho đến khi nước trong và không còn cặn trong bọt nữa. Sau đó, cho một ít gia vị vào và điều chỉnh độ lửa sao cho nồi nước chỉ sôi lăn tăn để giữ cho nước khỏi bị đục và chất ngọt từ xương có đủ thời gian để tan vào nước lèo.

Có thể nói, phở Hà Nội có cái ngọt chân chất của xương bò, cái thơm của thịt vừa chín đến độ để vẫn dẻo mà lại không dai. Màu nước phở trong, bánh phở mỏng và mềm. Chỉ nhìn bát phở thôi cũng đủ thấy cái chất sành điệu, kỹ càng trong ăn uống của người Hà Nội. Một nhúm bánh phở đã trần qua nước nóng mềm mại dàn đều trong bát, bên trên là những lát thịt thái mỏng như lụa điểm mấy ngọn hành hoa xanh nõn, mấy cọng rau thơm xinh xắn, mấy nhát gừng màu vàng chanh thái mướt như tơ, lại thêm mấy lát ớt thái mỏng vừa đỏ sậm vừa màu hoa hiên.

Tất cả màu sắc đó như một bức họa lập thể hơi bạo màu nhưng đẹp mắt cứ dậy lên hương vị, quyện với hơi nước phở bỏng rẫy, bốc lên nghi ngút, đánh thức tất thảy khả năng vị giác, khứu giác của người ăn, khiến ta có cảm giác đang được hưởng cái tinh tế của đất trời và con người hợp lại. Chỉ húp một tý nước thôi đã thấy tỉnh người. Thịt thì mềm, bánh thì dẻo, thỉnh thoảng lại thấy cái cay dịu của gừng, cái cay nồng của ớt, cái thơm nhè nhẹ của rau thơm, cái thơm của thịt bò tươi mềm. Tất cả cứ ngọt lừ đi, ngọt một cách hiền lành, êm nhẹ mà chân thật, tuyệt kỹ hài hòa.

Ta có thể thưởng thức nhiều hương vị phở tại Hà Nội. Có ba món phở chính: Phở nước, Phở xào, Phở áp chảo. Trong ba loại phở trên thì phở nước là phổ biến hơn cả. Phở nước gồm có: Phở Bò, phở Gà, phở Tim gan. Tuy nhiên, người sành điệu chỉ ăn phở chuộng nhất phở Bò, thứ đến là phở gà và không chấp nhận những loại phở khác.

Đối với du khách nước ngoài thì phở được coi là món ngon hấp dẫn và lạ miệng bởi sự tinh túy. Để thưởng thức phở ngon thì cần phải để phở trong bát sứ chứ không phải là bát thủy tinh hay bát nhựa. Bát đựng phở không được quá to hay quá nhỏ. Nếu bát quá nhỏ, nước dùng sẽ chóng nguội và không có đủ chỗ để thịt, rau thơm và gia vị. Nếu bát to quá thì chưa ăn hết một bát bạn đã thấy chán vì phở chỉ là một món ăn nhẹ hoặc món ăn thêm.

Khi ăn phở, một tay cầm đũa còn tay kia cầm thìa. Dùng đũa tre là thích hợp nhất vì nó giản dị và không bị trơn khi gắp bánh phở. Bàn ăn phở cần hơi thấp so với bình thường để nước dùng không vương vào quần áo bạn khi cúi xuống gắp sợi bánh phở lên ăn.

Trông bạn sẽ rất kỳ cục nếu bạn uống bia hoặc trà đá khi ăn phở. Tuy nhiên, bạn nhấm nháp một chén cuốc lủi để bát phở thêm ngon thì có thể chấp nhận được. Nhưng thường thì không dùng đồ uống hoặc các đồ ăn khác khi ăn phở, ăn như vậy mới càng thấy phở ngon.

Từ Bắc tới Nam đất nước đâu đâu cũng có lúa gạo, có bánh cuốn, bánh tráng nhưng có lẽ bánh cuốn Thanh Trì của Hà Nội vẫn đặc sắc hơn cả: lá bánh cuốn mỏng tang như một lớp lụa mịn màng. Mỗi lá chỉ cần thoa thêm chút mỡ, rắc chút hành khô phi thơm là nổi vị bát nước chấm thơm vị cà cuống đặc trưng đã làm nên phong vị đặc sắc của bánh cuốn Thanh Trì. Đặc sản của một vùng quê:

Làng Thanh Trì là một làng vào loại cổ nhất của Thăng Long – Hà Nội. Hàng năm, cứ vào ngày 1 tháng 3 âm lịch, đầu làng Thanh Trì lại mở hội, trong hội có cuộc thi tráng bánh cuốn giữa các thôn trong làng. Trong cuộc thi, mỗi đội phái tráng cả bánh cuốn lá lẫn bánh cuốn nhân.

Ban giám khảo là những cụ cao niên trong làng và đại diện chính quyền địa phương sẽ chấm điểm cho mỗi đội dựa theo quy định: các đội phải làm theo đúng phương pháp cổ truyền, trong một thời gian quy định, đội nào tráng được nhiều bánh, bánh mỏng, dẻo, có sắc trắng mịn cùng nước chấm ngon, trình bày đẹp sẽ đạt giải.

Theo thần tích của địa phương, nhân dân đã tụ họp về đây khai khẩn đất từ thời Hùng Vương, An Quốc, Con trai vua Hùng thứ 18 (là bạn của Sơn Tinh) đã từng dựng dinh thự, dạy dân cày cấy sống giữa vùng ao hồ rộng lớn, hai phần ba dân làng sống bằng nghề làm bánh cuốn. Bánh được làm từ những loại gạo ngon, xay mịn như nước, lá bánh mỏng tang như tờ giấy, được thoa thêm một chút mỡ phi hành cho thơm. Bánh cuốn Thanh Trì bao đời nay đã là niềm tự hào của người dân nơi đây.

“Múc lưng muôi bột dàn đều trên khuôn vai, đậy nắp vung lại. Đợi khi mở nắp vung ra, mặt bánh phồng lên tức là bánh đã chín. Sau lấy que tre sọc ngang, nguyên một tờ gạo mong manh được nhấc ra. Xoa một tý mỡ hành cho bóng bẩy rồi gấp lại…” . Chẳng thế mà những nhà văn như Thạch Lam hay Vũ Bằng đều dành cho bánh cuốn Thanh Trì một sự ưu ái riêng….

Thưởng thức vài lần món bánh cuốn Thanh Trì rồi. anh sẽ thấy nhớ mãi món quà đó và nhớ từ cái dáng người bán hàng đội bánh nhớ đi. nhớ thứ nước chấm, nhớ cái cảm giác bánh trơn trôi nhẹ vào trong cổ…nhớ quá, nhớ khôn nguôi!” (Miếng ngon Hà Nội – Vũ Bằng)

Cho dù ngày hôm nay, các công đoạn làm bánh cuốn đã được cơ hóa thế nhưng trong hội làng, người dân Thanh Trì vẫn phải chế biến theo lối cổ – nghĩa là bội vần được xay từ những chiếc cối đá làm từ đá xanh Thanh Hóa. Và để bánh mỏng tang, trắng mịn thì chậu bột được pha theo một tỷ lệ riêng của mỗi người.

Cũng thật lạ, bánh cuốn Thanh Trì nguyên liệu chẳng có gì cao sang hay pha chế biến cầu kỳ bởi chỉ cỏ bột xay, nhân làm bằng hành hoa tươi chưng với mỡ hay nhân bánh bằng mỡ thăn cùng hành khô chưng lên để có mùi thơm nhưng làm ẩm khách nhớ khôn nguôi khi thưởng thức.

Bánh cuốn Thanh Trì đặc biệt nhất ở chỗ tráng mỏng, hành mỡ thoa vào mướt mặt mà nếm thì thanh nhẹ, sắc trắng của bánh nổi bật lên một cách hiền lành cùng những đốm nhân màu nâu đỏ cua hành phi. Nhìn những thếp bánh mới làm óng ả có thể làm bất cứ ai trông thấy thôi cũng thấy thèm.

Một trong những bí quyết để có được những mẻ bánh ngon là chọn gạo ngon, gạo có ngon thì mặt bánh mới láng mượt, óng ả. Nếu gạo quá dẻo thì bánh nát, còn gạo kém thì bánh sẽ không thơm ngon. Và không thể quên khâu quan trọng là bột. Bột được xay nhuyễn nên mặt bánh cuốn mới được láng bóng, óng ả như cậy. Nếu bột loãng quá bánh sẽ nát, mà đặc quá bánh sẽ dày mình, ăn thô thì đâu được gọi là bánh Thanh Trì.

Thường thì xế chiều, dân Thanh Trì lại nổi lửa tráng bánh. Sở dĩ bánh cuốn tráng từ chiều cho tới đêm bởi bánh tráng xong phải để qua đêm thì mới bay đi mùi nồng của bột. Đến sáng bánh vừa mềm. vừa thơm mát mùi gạo… Người làng Thanh Trì xưa chỉ đội thúng bánh cuốn trên đầu rồi đi rong phố phường. Bây giờ nhiều người làng Thanh Trì vẫn đạp xe đi bán hàng rong Không gì thú vị bằng được thưởng thức đĩa bánh cuốn nóng còn vương sợi trong cái giá lạnh của mùa đông.

Ngắm nhìn bàn tay khéo léo của chị chủ quán đang thoăn thoắt tráng từng chiếc bánh, cuộn nhân lại trong không gian mờ hơi nước từ nồi tráng bánh bay lên giúp những ai đang lạnh giá cũng cảm thấy ấm áp lạ thường. Ở Hà Nội có một cửa hàng nhỏ bán bánh cuốn Thanh Trì mang cả hương vị của riêng của Hà Nội. Dù chỗ ngồi chẳng đủ, người nọ phải đợi người kia nhưng khách hàng đều chấp nhận để được thường thức một suất bánh cuốn đúng như vị Thanh Trì.

Bánh Thanh Trì thơm dịu được chấm với nước chấm được pha rất hài hòa. không quá chua cũng không quá mặn và thêm vài lát chả. Chắc chắn, ai đã thưởng thức một lần thì sẽ không thể quên được mùi vị ngon lành đó. Bánh cuốn nóng nhân thịt được “kế thừa” từ bánh cuốn Thanh Trì mà ra.

Những chiếc bánh cuốn nóng óng mượt vỏ bóng mỏng tang, mỏng như lụa để khoe lớp nhân thịt cùng nấm hương ẩn hiện bên trong. Rồi rau thơm Láng, giò chả Ước Lễ trong một bát nước chấm ngon cũng là để tăng thêm mùi vị cho đĩa bánh cuốn nóng. Ngần đó thức dùng trong món bánh cuốn nóng đã cho ta thấy sự trau chuốt của người bán hàng trong món ăn của mình… Sau đó, bánh được tô điểm thêm bằng hành phi vàng thơm nức và chút ruốc tôm hồng như phấn làm đẹp thêm những chiếc bánh cuốn trắng.

Một đĩa bánh cuốn nóng sẽ có mùi hương của gạo mới, độ dẻo vừa phải cả miếng bánh ăn kèm với lát chả quế ngầy ngậy điểm thêm vài nhánh rau ngò, rau húng thơm. Bánh cuốn ngon không thể thiếu nước chấm, phải pha sao để mà dậy được cái mùi cà cuống lên thì thật là tuyệt vời.

Dù là bánh cuốn nguội Thanh Trì hay bánh cuốn nóng thì cần phải có nước chấm vừa miệng. Pha nước chấm thế nào là bí quyết riêng của mỗi cửa hàng mà họ luôn giữ kín công thức. Chỉ biết rằng, khách tới những cửa hàng bánh cuốn ngon đều mê mẩn thứ nước màu hổ phách thơm dịu đó.

Theo những người bán hàng thì nước chấm bánh cuốn không thiên về vị chua mà cần cân bằng giữa vị mặn của nước mắm và vị ngọt của đường. Chén nước mắm nhỏ xíu xinh xắn, không mặn quá, không chua quá, mà cũng không cay quá. Có lẽ vì bánh cuốn vốn mềm mại, thanh mát nên nước chấm đi cùng cũng dìu dịu như vậy để hài hòa.

Trước đây, người Hà Nội thường ăn bánh cuốn với đậu làng Mơ rán giòn, nhưng giờ đây bánh cuốn thường được ăn với giò chả của vùng Ước Lễ – Hà Tây. Chả quế Ước Lễ vừa ngon, ngọt, thơm mùi quế đặc trưng rất hấp dẫn. Chả quế thơm hương vị quế rừng, hương vị thịt nướng thuở hoang sơ, giò lụa thoáng hương chuối quê đồng nội. Ăn miếng chả quế dậy mùi thơm thịt nướng, hương vị cay hấp dẫn của quế chi, ngọt của mật ong, phảng phất mùi thơm quý phái.

Những chiếc bánh cuốn ngon đặc biệt ở độ nóng, giòn và dai của bánh, ở vị thơm của hành phi, vị mặn – ngọt của nước chấm, và với một chút rau thơm, rau mùi, vài ba miếng chả cùng 1-2 giọt tinh dầu cà cuống vừa thơm vừa cay. Không cao sang, cầu kỳ, bánh cuốn là một món ăn bình dị, thân quen đối với mọi đối tượng thực khách, từ sang trọng cho đến tầng lớp bình dân.

Có thể vì thế mà những người Hà Nội đi xa hay những người từ xa tới với Hà Nội đều có chung một nhận xét rằng: Hà Nội có rất nhiều món ăn ngon và một trong những, món ăn để lại niềm thương, nỗi nhớ đó là bánh cuốn.

Ẩm thực Việt Nam phong phú và đa dạng, từ những món ăn được bày biện trong các bữa tiệc trọng đại đến những món ăn đời thường dân giã đều mang những hương vị và vị đặc trưng riêng. Một trong những ẩm thực thu hút giới trẻ hiện nay là ẩm thực đường phố bởi tính tiện lợi của nó. Những món ăn vừa ngon vừa thú vị như bánh đa nướng, bắp xào bơ, chân gà sả ớt, bánh lọc,…..đã không còn quá xa lạ với những học sinh, sinh viên hiện nay. Đặc biệt, có một món ăn quen thuộc không kém và không thể không nhắc đến của ẩm thực đường phố đó là món bánh tráng trộn.

Món bánh tráng trộn vốn dĩ được khởi đầu từ Tây Ninh, bởi thế mà người ta thường hay gọi món ăn này là “đặc sản của Tây Ninh”. Dần dần đây là món ăn được nhiều người biết đến, được làm phổ biến khắp mọi nơi. Đặc biệt là ở Sài Gòn, bánh tráng trốn thực sự đang “làm mưa, làm gió” khắp nơi của thành phố mà chưa bao giờ có dấu hiệu hạ nhiệt. Ở một số thành phố khác như Huế, Đà Nẵng hay Hội An, món ăn này cũng được sự săn đón của nhiều bạn trẻ.

Ban đầu, để làm món bánh tráng trộn người ta lấy những mẩu vụn của bánh tráng trong các nhà máy, trộn thêm một ít dầu ăn, muối ớt, chút hành phi. Song, qua sở thích cũng như sự sáng tạo của những “vị đầu bếp” không chuyên, có thể “mix” thêm nhiều nguyên liệu khác nhau để tạo nên một món bánh tráng trộn vừa ngon, vừa đảm bảo chất dinh dưỡng.

Nhìn chung, nguyên liệu chủ yếu để làm nên món ăn này cần phải có bánh tráng cắt sẵn, trứng cút, khô bò đen, xoài, tắc, ớt, ít đậu phộng rang, hành lá vài cọng, muối tôm tây ninh…và một số gia vị khác. Có thể thấy, nguyên liệu làm bánh tráng trộn không quá khó khăn để tìm kiếm hoặc đắt đỏ để phải e dè túi tiền của mình khi mua.

Sau khi chuẩn bị nguyên liệu sẵn sàng, bắt đầu bước vào công đoạn làm trộn bánh. Trước tiên, cắt bánh tráng thành các sợi nhỏ, không quá dài, vừa miệng. Rửa sạch rau răm, cắt nhỏ. Sau đó là luộc trứng cút, vắt tắt để lấy nước cốt, tước khô bò thành các sợi mỏng. Việc tiếp theo là trộn hết tất cả các nguyên vật liệu vừa hoàn thành vào một chiếc thau lớn, thêm muối tôm Tây Ninh vào rồi dùng đũa thường trộn chúng lên thật đều. Sau cùng, cần bỏ thêm hành phi và rau răm vào rồi trộn đều thêm lần nữa. Lưu ý, khi làm cần đảm bảo vệ sinh, thêm gia vị vừa phải để tránh bị quá mặn hoặc quá nhạt. Mặt khác, cũng cần chịu khó trộn đi trộn lại nhiều lần để từng sợi bánh được thấm đều gia vị.

Bánh tráng trộn đạt chuẩn ngon không chỉ đẹp về hình thức mà còn phải hấp dẫn bởi hương vị. Sợi bánh khi làm xong không quá mềm, đủ độ dai, dẻo. Khi ăn có vị chua chua ngọt ngọt của tắt, vị dai của bánh, vị béo ngậy của lạc, trứng cút, vị thơm của bò khô, vị thanh thanh của rau răm. Ngoài ra, còn có vị cay cay của ớt và mặn mà của muối Tây Ninh. Bánh tráng trộn khi hoàn thành được bọc trong từng túi ni lông nhỏ để đảm bảo hạn chế việc không khí lọt vào bên trong, cần ăn liền khi làm xong, không nên để bánh quá lâu vì nó dễ bị mềm đi, mất đi hương vị vốn có.

Dù hiện nay, có rất nhiều món ăn đường phố nhưng vẫn không thể thay thế được món bánh tráng trộn trong lòng các bạn sinh viên. Có lẽ sự hấp dẫn của món ăn này không chỉ đến từ vị ngon mà còn đến từ giá cả của nó. Món bánh tráng trộn giá dao động từ 7000 đến 15000 đồng một gói, đó là một giá cả hợp lý, phù hợp với túi tiền của các bạn sinh viên, học sinh. Song, vẫn có thể thấy bánh tráng trộn không chỉ hấp dẫn những người trẻ thôi đâu, trong các quán bán bánh tráng trộn ta vẫn thấy những chị công nhân ngồi nhâm nhi từng sợi bánh, một vài anh chàng trưởng thành đang xếp hàng đứng đợi để mua bằng được bịch bánh tráng trộn về cho vợ con ở nhà.

Phong vị đặc trưng mà bánh tráng trộn vốn có đã khiến món ăn thực sự phổ biến và thu hút dẫu ở nơi đâu.Nếu đến Sài Gòn, vòng quanh những con đường như Nguyễn Thượng Hiền quận 1, cạnh những ngôi trường phổ thông hay ghé chợ Bình Tây bạn sẽ không khó để tìm và thưởng thức món bánh này. Nếu ghé Huế, lang thang dạo mát trên vỉa hè Hồ Đắc Đi, Hùng Vương, Duy Tân cũng có thể chọn lựa cho mình một quán bánh tráng trộn để ngồi thưởng thức khi đêm về.

Bánh tráng trộn không chỉ mang lại nguồn dinh dưỡng hữu ích cho người thưởng thức, đáp ứng nhu cầu của mọi người mà nó còn là món ăn giúp nhiều người có thêm nguồn thu nhập khi chọn nó làm kế sinh nhai. Nhiều gia đình đã gắn bó với việc buôn bán bánh tráng trộn lâu năm, tuy không lời quá cao nhưng cũng giúp họ trang trải được phần nào trong cuộc sống.

Em từng nhớ có một người chị ở Sài Gòn từng bảo với em rằng: “Nếu vào Sài Gòn mà không lựa chọn món bánh tráng trộn thì đó là một sai lầm”. Có lẽ , em sẽ chẳng bao giờ tin lời nói ấy cho đến khi hè vừa rồi có dịp được vào du lịch ở đó, được thưởng thức món ăn ấy mới hiểu được rằng những lời mà người chị kia nói quả không sai. Hy vọng rằng, trong tương lai, bánh tráng trộn sẽ trở nên phổ biến hơn nữa.

Nem rán từ lâu đã là món ăn không thể thiếu trong mâm cơm tất niên của người Việt và rất được ưa chuộng trong đời sống hàng ngày. Từ Bắc vào Nam, từ miền xuôi đến miền ngược, dù được gọi với nhiều cái tên khác nhau nhưng với cách làm đơn giản và hương vị hấp dẫn, nem rán đã trở thành một trong những dấu ấn của ẩm thực Việt Nam.

Về nguồn gốc, nem rán bắt nguồn từ món Dim Sum của Trung Quốc và nhanh chóng trở thành món ăn phổ biến tại hầu khắp các quốc gia trên thế giới. Tại Hàn Quốc, món ăn này được gọi là Chungwon, Nhật Bản gọi là Harumaki hay Lumpia là tên của nem rán tại Indonesia và Philippines, người Đức gọi là Frühlingsrolle và người Pháp gọi chúng là Rouleau de printemps. Ngay ở Việt Nam, người miền Bắc gọi là nem rán, người miền Trung gọi là chả ram và người miền Nam lại gọi nó là chả giò. Tuy bắt nguồn từ một món ăn Trung Quốc nhưng nem rán đã được Việt hóa và trở thành một món ăn dân tộc, đặc sản tinh túy của ẩm thực Việt Nam.

Có thể được ưa thích và phổ biến rộng khắp trên thế giới như vậy là do nguyên liệu của món nem rán rất phong phú, dễ kiếm và có thể thay đổi linh hoạt. Nhưng chẳng ở đâu nem rán có sự hòa quyện của nhiều nguyên liệu độc đáo như tại Việt Nam. Trong nem rán có sự hóa thân của hạt gạo thành bột mịn tráng lá đa nem, những giọt nước mắm thơm lừng làm từ tôm, cá, có sự hòa quyện của nhiều thực phẩm và hương liệu thiên nhiên.

Sau khi chuẩn bị xong nguyên liệu, chúng ta bắt tay vào sơ chế. Nếu dùng miến thì ngấm nước đến khi mềm thì cắt nhỏ. Mộc nhĩ và nấm hương ngâm nước nóng cho nở đểu, rửa sạch rồi thái nhỏ. Các loại củ rửa sạch, gọt vỏ, thái sợi. Hành và tỏi đập dập, băm nhỏ. Sơ chế xong nguyên liệu, chúng ta trộn đều và nhuyễn tất cả các nguyên liệu trên, nêm cho vừa gia vị, sau đó đập trứng và đảo đều. Trộn đều nguyên liệu không chỉ giúp gia vị ngấm đều, vừa ăn mà còn giúp nguyên liệu quyện vào nhau dễ cuộn hơn và nem cũng chắc hơn. Việc cuộn nem đòi hỏi sự khéo léo sao cho nem tròn đều, không bị rách vỡ. Trước khi cuộn nem nên dấp nước dấm pha loãng đểu khắp lá đa nem. Việc này không chỉ khiến lá đa nem mềm, dễ gói mà còn giúp nem rán vàng và giòn hơn. Sau đó trải đều nhân nem ở chính giữa phía trên, gấp hai bên mép lá đa nem lại rồi cuộn tròn.

So với bước chuẩn bị và sơ chế, công đoạn chế biến nem lại đơn giản hơn. Đặt chảo lên bếp, đổ dầu vào, đợi đến khi dầu nóng già, chúng ta nhẹ nhàng cho nem vào chảo để rán. Khi rán, phải thật khéo léo cho nem chín đều nhưng cũng không nên lật dở nhiều, dễ bị vỡ nem. Khi nem chín, vàng giòn, tỏa mùi thơm thì gắp ra đĩa.

Món nem rán như thế là đã hoàn thành được một nửa. Khâu quan trọng còn lại là pha nước chấm. Có nhiều người cho rằng nem ngon hay không là do nước chấm. Để có một bát nước chấm ngon nên pha bằng nước ấm và hòa tan đường, mì chính trước. Sau đó mới cho thêm giấm, nước cốt chanh, nước mắm. Bí quyết để có màu đẹp tự nhiên cho bát nước chấm là giã một ít ớt chín đỏ đã bỏ hạt và cho thêm một múi chanh đã tách rời các tép vào. Nên thả ớt, tép chanh này cùng tỏi và rau mùi thái nhỏ vào sau cùng để những gia vị này nổi đều, bát nước chấm sẽ đẹp mắt hơn.

Để món ăn thêm hấp dẫn, trình bày đẹp mắt cũng trở thành một yêu cầu quan trọng. Chúng ta có thể xếp xung quanh đĩa một lớp cà chua, dưa chuột thái lát tròn, rau sống xếp bên dưới và nem rán đặt bên trên để món ăn có đủ màu sắc hài hòa. Nem rán là món ăn có cách thưởng thức phong phú và đa dạng, nó có thể trở thành món chính trong bữa cơm gia đình, có thể ăn kèm với bún và dưa góp hay trở thành món ăn chơi thông thường…

Không chỉ thơm ngon, món nem còn chứa đựng nhiều giá trị và ý nghĩa quan trọng, về giá trị, đây vừa là món ăn giàu chất dinh dưỡng lại vừa là một mặt hàng ẩm thực thu hút nhiều thực khách trong nước và du khách nước ngoài. Với bạn bè quốc tế, các món ăn như phở, nem, nộm… đã trở thành những dấu ấn hấp dẫn về ẩm thực Việt Nam. Nhưng có lẽ, vẻ đẹp tiềm ẩn bê’ sâu của món ăn này nằm ở ý nghĩa đẹp đẽ của nó. Nguyên liệu đa dạng gợi ra sự phong phú, muôn màu muôn vẻ của cuộc sống. Tất cả lại cùng nhuần nhuyễn vào nhau như sự đồng lòng, gắn bó, đồng điệu giữa con người với con người.

Ẩm thực Việt Nam với chín đặc trưng cơ bản, như nhà sử học Hãn Nguyên Nguyễn Nhã thì nem rán giờ đây đã là một món ăn thuần Việt với tính hòa đồng hay đa dạng, ít mỡ, đậm đà hương vị, ngon và lành, tính dùng đũa, tính cộng đồng, hiếu khách, tính dọn thành mâm và đặc biệt nhất chính là tính tổng hòa nhiều chất, nhiều vị. Trong mỗi miếng nem rán thơm ngon không chỉ là sự kì công, cẩn thận của người chế biến mà còn là cả quá trình nỗ lực, khẳng định bản sắc dân tộc trong từng món ăn thức uống.

Mỗi một vùng miền, mỗi một thành phố hay một dân tộc đều sẽ có những đặc sản riêng. Nó là “tiếng nói chung, sở thích chung” mà ông cha đã để lại cho con cháu. Mang tầm nhìn văn hóa đối với vùng đó, dân tộc đó. Cũng vì vậy mà khi đến từng nơi mọi người thường hay thưởng thức đặc sản ở đó và mua về làm quà cho gia đình cho bạn bè.

Mì Quảng là món ăn bình dân, mộc mạc, vì thế cách chế biến cũng khá đơn giản nhưng đòi hỏi sự khéo léo và tinh tế. Gạo ngon sau khi đem ngâm, xay thật mịn rồi tráng. Ngày xưa người ta xay bột bằng cối đá, thời nay, với sự hiện đại của khoa học kỹ thuật, cối đá đã thay bằng máy xay có động cơ. Tráng bột lên một màng vải căng trên nồi nước lớn đang sôi. Sau khi tráng một lớp dầu phộng đã khử chín lên lá mì, gấp lại rồi cắt thành từng cọng như cọng phở. Vậy là xong bước chuẩn bị mì. Phần tiếp theo là chuẩn bị nước dùng và nhân mì. Nước dùng phải được nấu nhiều xương cho ngọt, thêm ri dầu hạt điều để nước dùng có màu tươi. Phần quan trọng thứ hai trong tô mì là “nhân”, gồm có thịt gà, thịt bò, sườn heo non, tôm. Các thứ này được xào cùng với khóm (dứa) cắt nhỏ, tạo thành các loại thịt cùng với vị ngọt hơn chua của khóm. Mì Quảng không sử dụng nước dùng nhiều như hủ tiếu và phở, nên trước khi chế nước dùng vào, sợi mì phải được trụng nước nóng hơi lâu. Nhân được xếp sao cho đẹp, nhìn phải bắt mắt, vì vậy thịt và tôm phải để trên mặt cho đều rồi mới chế nước dùng, sau cùng rải đậu phộng lên. Già đậu phộng để ăn mì Quảng cũng là một nghệ thuật. Đậu không được đâm nhuyễn, chỉ cà cho vỡ hai ra để người ăn nhai cùng với bánh tráng phát ra âm thanh mới thú vị. Ăn mì Quảng phải kèm bánh tráng gạo miền Trung nướng bằng lửa than mới ngon. Rau ăn với mì Quảng là rau húng cây, húng lùi, xà lách cùng với chuối cây xắt mỏng trộn vào nhau thành một hỗn hợp rau.

Người miền Nam thích ăn giá sống có thể cho vào một ít. Tô mì chẳng giống phở, cũng chẳng giống bún, cái vị đậm đà của nước lèo, lẫn mùi thơm của hành ngò, rồi tiếng húp xì xoạp làm nên nét hấp dẫn của tô mì… Mì ngon là ngon từ lá mì kia, lá mì không được dẻo quá mà cũng không quá tơi, tô mì phải có bố cục đẹp mắt. Khi bạn trộn lên, nếu lá mì bị gãy ra tức là đã mất ngon đi cả chín phần, về nước lèo, nước phải trong nhưng đảm bảo độ béo và ngọt. Nhiều gia vị quá, nước lèo làm cho tô mì loè loẹt và đôi khi át mất hương vị đồng quê. Gắp một đũa mì cho vào miệng, cắn một miếng ớt thật cay, húp ngụm nước lèo cho phát ra tiếng “soạt”, khi đó mới thấy cái thú, mới thấy cái ngon đầy miệng. Nhìn tô mì đầy đặn, bên những chú tôm đỏ mọng là một lới rau ngò xanh xanh, dăm ba hạt đậu phộng được rải đều, làm cho ta cảm thấy vui mắt và chỉ muốn ăn ngay. Mì Quảng phải ăn ngay, ăn từ khi còn nóng, để nguội sẽ mất ngon, lá mì sẽ bị tơi ra, rau sống héo đi, cái mùi thơm giòn của rau, đậu sẽ bị tản bớt… Có một điều, ăn mì Quảng mà thiếu bánh tráng thì coi như không đúng cách. Bánh tráng cho ta cái giòn giã và thơm tho, cái béo của dầu mỡ quyện với cái béo của gạo nướng trong bánh tráng càng làm cho người ăn có cảm giác ngon miệng mà không ngán.

Ngày nay, mì Quảng đã được các chủ quán thêm vào một số “biến tấu” trong cách trình bày cũng như thành phần gia vị. Nhưng đây vẫn là một món ăn mang đậm hương vị của Quảng Nam.

Ở Bình Định, mỗi khi về hồi dâu sau ba ngày cưới, cô gái nào cũng chuẩn bị một quả bánh ít do tự tay mình làm, mang về cúng gia tiên và biếu bố mẹ ruột làm quà để tỏ lòng hiếu thảo.

Từ một câu ca đến những huyền thoại:

(Ca dao)

Chiếc bánh ít lá gai là một đặc trưng của xứ dừa Bình Định. Không chỉ đặc trưng từ hương vị ngọt bùi thơm dẻo kết tinh từ lao động và sáng tạo của người nông dân; không chỉ đặc trưng từ hình dáng tựa những ngôi tháp Chàm cổ kính rêu phong, từ sắc màu đen lục của lá gai và nếp dẻo mà còn đặc trưng bởi cái tên gọi mang đầy chất huyền thoại.

Nguồn gốc của bánh được lý giải bắt nguồn từ theo sự tích xưa, thì sau khi chàng Lang Liêu – con trai của vua Hùng thứ sáu đã thắng cuộc trong hội thi làm các món ăn để cúng trời đất, tổ tiên trong ngày tết đầu năm mới với hai thứ bánh ngon lành và đầy ý nghĩa là bánh chưng và bánh dày. Một nàng con gái út của vua thường được mọi người gọi trìu mến là nàng Út, vốn rất giỏi giang, khéo léo trong công việc bếp núc, đã nhân dịp đó trổ tài, sáng tạo thêm ra những món bánh mới. Nàng Út muốn có một thứ bánh mới vừa mang hương vị bánh dày, vừa mang hương vị bánh chưng của anh mình. Nàng liền lấy chiếc bánh dày bọc lấy nhân của chiếc bánh chưng. Thứ bánh mới này quả đã đạt được yêu cầu tuy hai mà một của nàng Út. Có thứ bánh mới, nàng Út lại suy nghĩ rồi quyết định phỏng theo hình dáng của bánh dày và bánh chưng để làm thành hai dáng bánh khác nhau, một thứ dáng tròn không gói lá, giống hệt như bánh dày, một thứ dùng lá gói kín thành dáng vuông giống hệt như bánh chưng để đạt được ý nghĩa “tuy hai mà một”. Nhưng cả hai thứ bánh đó đều làm nho nhỏ xinh xinh để tỏ ý khiêm nhường với thứ bậc nàng Út của mình trước các anh chị.

Sau hội thi, ngoài bánh dày, bánh chưng được coi như những thứ bánh thiêng liêng ra, những cặp bánh mang ý nghĩa “tuy một mà hai, tuy hai mà một” của nàng Út cũng được mọi người khen ngợi không ngớt. Sau này, những thứ bánh ấy được lưu truyền trong dân gian, mọi người làm theo và cứ gọi bánh này là bánh Út Ít. Trải qua nhiều thời đại, bánh nàng Út Ít đã được cải tiến trở thành nhiều hình vẻ hơn và tên bánh được gọi vắn tắt là bánh út ít, rồi thành bánh ít như ngày nay.

Cũng có người giải thích rằng loại bánh này nhiều hình nhiều vẻ: Thứ gói lá; thứ để trần, nặn cao, nặn dẹt; thứ trắng, xanh, đen; thứ nhân dừa, nhân đậu nên khi làm bánh, dù là để ăn hay để bán, người ta cũng thường làm mỗi thứ một ít cho có thứ nọ, thứ kia, đủ vẻ, đủ hình, do đó mà thành “bánh ít”. Có câu ca dao:

Đó là cách lý giải của người Việt xưa, còn người Bình Định thì lại lý giải bằng cách liên hệ giữa hình dáng bánh ít với tháp Chàm ở Bình Định. Hầu hết các tháp Chàm ở Bình Định đều đứng trên đồi cao, tạo một đỉnh nhọn ở giữa như chiếc bánh ít. Và thực tế, tại Bình Định cũng có hẳn một ngôi tháp mang tên Bánh Ít đi vào ca dao:

Cách lý giải thứ hai là dựa vào tục lễ hồi dâu của các cặp vợ chồng mới cưới. Ở Bình Định, mỗi khi về hồi dâu sau ba ngày cưới, cô gái nào cũng chuẩn bị một quả bánh ít do tự tay mình làm, mang về cúng gia tiên và biếu bố mẹ ruột làm quà để tỏ lòng hiếu thảo. Món quà tuy “ít”, nhưng là “của ít lòng nhiều”, ở đó nó còn có cả những giọt mồ hôi, sự nhẫn nại kiên trì, đôi bàn tay khéo léo, và đặc biệt là tấm lòng hiếu để của cô gái xa cha mẹ về làm dâu xứ người.

Dù chỉ trong ba ngày cưới, bận rộn với bao nhiêu niềm hạnh phúc, lo toan, song người con gái vẫn không quên cha mẹ mình, vẫn dành thì giờ để làm những chiếc bánh “ít” thơm thảo chờ ngày hồi dâu mang về làm quà cho bố mẹ. Nghĩa cử ấy thật không có gì bằng!

Để làm được chiếc bánh ít, người ta phải trải qua nhiều công đoạn, dụng khá nhiều công sức, sự dẻo dai, bền bỉ và khéo léo. Đầu tiên là phải chọn nếp để xay (nếp dùng làm bánh ít phải là nếp mới, thơm, độ dẻo vừa) rồi vo kỹ, ngâm với nước vài giờ, sau đó mới xay nhuyễn. Nếu xay bằng cối xay thủ công, phải cho ráo nước để được một khối bột dẻo.

Để có màu xanh đen và hương vị thơm chát cho bánh, người ta hái lá gai non (Cây lá gai thường mọc sẵn ở các hàng rào quanh nhà), rửa sạch rồi luộc chín, vắt khô, sau đó trộn với bột dẻo đem đi giã. Đây là công đoạn dụng khá nhiều sức. Vì nếu giã chưa nhuyễn, bánh ăn lợn cợn, tạo cảm giác không ngon.

Tiếp đến là công đoạn làm nhân “nhưng” bánh. Nhưng bánh ít lá gai bao gồm đậu xanh, đường, dừa, có chút quế cho thơm. Đậu xanh đem xay vỡ đôi rồi ngâm và đãi cho sạch vỏ trước khi luộc chín. Cùi dừa được bào ra thành sợi, bỏ vào chảo gang xào chung với đường một lúc cho đến độ chín tới mới trộn tiếp đậu xanh. Xào nhưng trên bếp lửa liu riu cho đến khi nào đường chín tới, nhưng có màu vàng sẫm, dẻo quánh, mùi thơm bốc lên ngào ngạt là vừa.

Làm bánh ít không khó, nhưng đòi hỏi phải tỉ mỉ. Sau khi đã xào nhưng xong, ngắt một miếng bột nếp tẻ thành bánh mỏng hình tròn trên lòng bàn tay, rồi vốc một nhúm nhưng bỏ vào giữa, túm bốn bên lại cho khít mối, sau đó vo tròn trong lòng bàn tay. Lúc này bột nếp đã bọc toàn bộ nhưng bánh thành một khối tròn. Để cho bánh khỏi dính, người ta chấm một chút dầu phộng, xoa đều trên tấm lá chuối xanh, sau đó bọc bánh lại theo hình tháp rồi mang đi hấp. Có nơi, người ta hấp bánh trần, bánh chín mới gói để giữ màu xanh của lá chuối. Khi ăn chỉ cần bóc nhẹ lớp lá chuối xanh là hiện ra lớp da bánh ít màu đen bóng, đầy vẻ quyến rũ, huyền bí.

Ngoài bánh ít lá gai, có một số nơi làm bánh ít thường bằng bột nếp, màu trắng, có nhưng đậu xanh, nhân dừa đường hoặc nhân tôm, thịt; có loại gói lá chuối, có loại để trần; cũng có loại làm bằng bột khoai mì, bột củ dong… và đều làm chín bằng phương pháp hấp như trên. Xong người An Nhơn, Bình Định thì chỉ làm bánh ít lá gai nhân dừa hoặc nhân đậu xanh gói lá chuối rồi mới đem đi hấp.

Ở hầu hết các làng quê Bình Định, đám giỗ nào cũng có bánh ít lá gai. Bánh cúng xong được dọn lên mâm cỗ làm món quà tráng miệng và làm quà bánh cho người ở nhà. Đây cũng là nét khác biệt trong văn hoá ẩm thực và văn hoá ứng xử của người Bình Định.

Ngày nay, dù có nhiều loại bánh hiện đại, ngon, rẻ và hấp dẫn hơn nhiều, xong người Bình Định vẫn không bỏ nghề làm bánh ít lá gai. Nếu không làm để bán được thì cũng làm để cúng giỗ và làm quà cho lễ hồi dâu. Họ truyền nghề này cho thế hệ con cái, nhất là con gái, như một thứ bảo bối gia truyền, một nét đẹp văn hóa.

Nhắc tới người Hải Phòng là nhắc tới những món ăn đặc sản của miền biển, những cuộc khám phá đầy ấn tượng trên vùng đất được tạo hóa và con người của nhiều thế hệ vun đắp nên. Đặc biệt nhất là món bún tôm đã trở thành một đặc sản, hấp dẫn thực khách không chỉ bởi hương vị mà còn ở nguyên liệu và bí quyết độc đáo riêng.

Nguyên liệu chính làm nên sức hấp dẫn cho món ăn này chính là những con tôm biển còn tươi nguyên được đưa lên từ Hải Phòng. Sau đó, chúng được bóc bỏ vỏ, xào cùng một chút hành khô cho thật săn. Cùng với tôm là những miếng chả cá vàng ươm, vài miếng chả lá lốt, thêm ít dọc mùng, thì là, rắc thêm một chút hành răm thái nhỏ và mấy lát cà chua. Bát bún tôm càng thêm đậm đà bởi vị ngọt, ngậy đặc trưng của nước dùng hàng bún, cùng với vị thơm của tôm, của rau và các loại gia vị. Thực khách yêu thích món bún tôm Hải Phòng đã ăn một lần là nhớ mãi đến hương vị ngọt lừ của món ăn độc đáo ấy. Từng sợi bún trắng mềm hòa quyện vào màu đỏ của tôm, cà chua, màu xanh của hành, của dọc mùng và màu vàng của chả cá tạo nên một bức tranh sống động nhiều màu sắc.

Trong khi ăn, thực khách sẽ cảm nhận được vị ngậy của nước dùng, vị thơm của tôm, của chả cá và đặc biệt là mùi hăng hăng không thể thiếu của vài miếng chả lá lốt. Nhưng đặc biệt hơn cả là hương vị của nước me chua thay thế hoàn toàn cho dấm và chanh vốn là những gia vị mà chúng ta đã quen sử dụng. Món bún ăn kèm với một ít rau sống và thêm vào vài miếng ớt khi ăn. Tất cả làm nên một tô bún tôm thật đặc biệt và hấp dẫn.Không biết từ bao giờ, món ăn dân dã, rẻ tiền ấy lại gắn liền với mảnh đất này. Chỉ biết rằng, bất cứ ai đã đến thăm Hải Phòng đều ít nhất một lần nếm thử và bị vị ngon của nó cuốn hút.

Thành phố Hải Phòng với những con đường rợp bóng phượng vĩ, với những hè phố rộng, từ lâu đã trở thành địa điểm kinh doanh lý tưởng của những món ngon đậm chất bình dân. Người dân Hải Phòng đều rất tự hào về đặc sản của đất mình.

Vốn là mảnh đất ngàn năm văn hiến, Hà Nội đã hình thành cho mình một nét văn hóa ẩm thực riêng. Sau những ngày tết với những thức ăn nhiều dầu mỡ. Người Hà Nội lại tìm đến với bữa bún thang thanh đạm mà không kém phần hấp dẫn.

Bún thang ra đời từ khi nào không ai rõ chỉ biết rằng hình ảnh bát bún thang từ lâu đã gắn bó với hình ảnh những cô gái của Hà Nội 36 phố phường duyên dáng, khéo léo và đảm đang.

Để làm được món bún thang phải chuẩn bị nguyên liệu khá cầu kỳ, để món ăn thêm phần hấp dẫn với các nguyên liệu như: bún, thịt gà, trứng gà, tôm nõn, nem chạo, xương lợn, rau thơm việc lựa chọn và chế biến các nguyên liệu ấy cũng rất tinh tế. Bún phải là thứ bùn sợi nhỏ trắng trong không có mùi chua. Thịt gà luộc chín xé sợi nhỏ, trứng gà lựa lấy trứng những lớp mỏng và khô rồi cuộn lại thái thành những sợi nhỏ. Với tôm nõn ta phải ngâm một lát để ráo nước rồi giả bông, rau thơm rửa sạch thái nhỏ, riêng với nem chạo thì ta để nguyên. Xương lợn là nguyên liệu dùng để nấu nước dùng vì vậy ta nên chọn xương ống vừa rẻ vừa ngọt nước. Ta rửa sạch sương chặt đôi từng khúc cho vào luộc sơ qua rồi rửa sạch. Xương sau khi rửa mới có thể nấu làm nước dùng. Khi nấu ta cho đầy đủ gia vị, nêm vừa miệng là được. Ban đầu để lửa to, sau khi sôi để lửa nhỏ cho xương mềm.

Sau khi chế biến xong các nguyên liệu ta chuẩn bị cho bữa ăn. Lấy một bát to ta đặt vào đó lần lượt: bún, thịt gà xé sợi, trứng gà thái sợi, tôm bông nem chạo, rau thơm rồi cho nước dùng vào. Cách sắp xếp cũng phải sao cho thật đẹp mắt – nó không chỉ là thể hiện vẻ đẹp hình thức của bát bún mà còn thể hiện sự khéo léo của người nấu. Một bát bún thang hoàn hảo với màu trắng của bún, màu trắng ngà của thịt gà, màu vàng của trứng, màu hồng của tôm bông, màu nâu của nem chạo, màu xanh của rau thơm. Đặc biệt sự trong veo của nước dùng sẽ làm nổi lên những màu sắc hấp dẫn của bác bún thang. Hương vị của bún thang rất thanh đạm khác hẳn cái béo ngậy của thịt mỡ, đồ nếp.

Bún thang cùng với Phở, bánh tôm. Đã trở thành đặc trưng của ẩm thực Hà Nội. Bún thang ẩn chứa trong đó sự khéo léo, tinh tế tỉ mỉ của những nghệ nhân ẩm thực đất Hà Thành. Vì thế bún thang đã để thương, để nhớ cho tâm hồn biết bao người con đất Kinh kỳ, cũng như những du khách may mắn trong đời có lần được đến Thủ đô.

Mỗi vùng miền đều có những nét đặc trưng rất riêng cho mùi đất quê hương. Nhắc đến Hải Phòng ta sẽ nghĩ ngay đến lễ hội chọi trâu tâm linh, nhắc đến Thái Bình ta sẽ nhớ về bánh cáy làng Nguyễn còn khi nhắc đến vùng đất học Thành Nam ta sẽ nghĩ ngay đến bánh xíu páo thơm ngây. Bánh xíu páo trở thành một nét đẹp văn hóa tự hào không thể thiếu của vùng đất Nam Định.

Xíu páo là tên một loại bánh dân dã, ra đời từ rất lâu. Theo lời cha ông tương truyền lại thì bánh xíu páo có nguồn gốc từ người Hoa. Qua quá trình sinh sống và làm việc bánh xíu páo đã theo chân người Hoa du nhập vào Nam Định trở thành thức quà quê quen thuộc.

Bánh xíu páo có hình tròn nhỏ, là sự hòa quyện tuyệt vời giữa vỏ bánh và nhân bánh. Để làm được một chiếc bánh công đoạn đầu tiên là làm nhân bánh chứ không phải vỏ bánh. Nhân bánh của xíu páo có vẻ khá giống như nhân bánh bao nhưng có lẽ đặc biệt hơn chút chút. Nguyên liệu để làm nhân bánh gồm có: thịt, mộc nhĩ, miến, trứng cút, dầu hào, ngũ vị hương, gia vị (mắm, muối…) và hành. Thịt để làm bánh gồm hai loại thịt: thịt nạc vai và thịt ba chỉ. Thịt nạc vai được dùng để làm xíu còn thịt ba chỉ được dùng để tô thêm sức ngậy cho phần nhân. Phần thịt sau khi rửa sạch, đem trần qua nước sôi, cắt hạt lựu đem ướp khoảng 30 phút với tỏi, dầu hào, ngũ vị hương, nêm nếm gia vị cho vừa đủ rồi đem xào lên. Phần thịt tuyệt đối không được thêm chất tạo màu hay chất bảo quản. Vì như thế sẽ làm mất đi hương vị tự nhiên của thịt. Mộc nhĩ và miến sẽ làm được sạch sẽ rồi đem ngâm với nước cho mềm, xay nhuyễn và ướp các hương vị vừa miệng. Đến từng củ hành cũng được lựa chọn kĩ lưỡng, mặt ngoài củ hành phải bóng, thơm, được bỏ vỏ đập nát, phi cho thơm nức. Cuối cùng của phần nhân đó là trứng, mỗi chiếc bánh thường sẽ có hai quả trứng cút, trứng được luộc, bóc vỏ và ướp qua với chút muối. Vậy là công đoạn làm nhân đã được hoàn tất. Chúng ta sẽ cùng bắt tay làm phần vỏ bánh. Vỏ bánh của xíu páo khá cầu kỳ, đòi hỏi người thợ làm bánh phải cực kì khéo léo, và nhanh tay. Qua các khâu chuẩn bị: rây bột ta trộn bột, đường, trứng theo tỉ lệ thích hợp rồi cho bột vào máy đánh cho bông, và nhuyễn. Sau đó ta đem ủ bột với một chiếc khăn ẩm trong khoảng 30 phút để bột dẻo và dai, dễ cán hơn. Hết khoảng thời gian đó ta trải một lớp bột khô lên để chuẩn bị cán bánh. Khi cán bánh người thợ phải khéo léo cắt bột thành tám lớp khác nhau, mỗi lớp vỏ dài chừng ba đốt ngón tay rồi theo thứ tự cho nhân vào gói lại. Công đoạn gói bánh cũng cực kỳ công phu, ngón tay người thợ phải uyển chuyển nhịp nhàng để xoắn thành những nụ hoa nơi đầu bánh. Làm xong bánh người thợ xếp bánh vào khay và cho lên nướng. Trông chừng cho đến hết mười lăm phút khay bánh được lôi ra và quét một lớp trứng gà lên cho vàng giòn, đẹp mắt. Nướng bánh thêm khoảng mười lăm phút nữa là sản phẩm hoàn chỉnh.

Advertisement

Một chiếc bánh đạt tiêu chuẩn là chiếc bánh có vỏ giòn rụm, khi ăn cảm nhận được vị thơm của hành, vị ngậy của xíu, mộc nhĩ, trứng, miến đọng lại trong miệng. Khi ta bóp nhẹ lớp vỏ sẽ tách ra thành từng lớp mỏng khác nhau. Cắn miếng xíu páo trong miệng sẽ cho ta vị mặn, ngọt, ngậy hài hòa.

Bánh xíu páo là thức quà sáng quen thuộc của không biết bao nhiêu thế hệ học sinh Nam Định. Mỗi buổi sáng đầu đông được thưởng thức một chiếc bánh xíu páo nóng hổi là đã đủ năng lượng cho cả ngày dài. Mỗi du khách đến Nam Định hay người con xa quê đều có thể tìm mua bánh xíu páo Nam Định chính gốc trên các con phố Hàng Sắt, Hoàng Văn Thụ, Lê Hồng Phong, để mang về làm quà. Một món quà dân dã nhưng thấm đượm nghĩa tình vô cùng.

Một chiếc bánh nhỏ xinh nhưng lại chứa đựng những nét độc đáo khiến ai đã từng một lần thưởng thức cũng thật khó để mà quên được. Nhấm nháp một chiếc bánh giòn rụm trong miệng ta như thấm được cả hương vị đất trời bao la. Bánh xíu páo là nét đẹp văn hóa mang bản sắc riêng của mảnh đất Thành Nam yêu dấu.

Từ lâu bánh xèo đã được xem là loại bánh mang nhiều đặc trưng của vùng quê Việt Nam, đặc biệt là miền Trung. Loại bánh này rất nổi tiếng bởi hương vị thơm ngon và cách chế biến đặc biệt.

Cái tên “bánh xèo” cũng khiến người ta suy nghĩ liệu rằng tiếng xèo xèo khi đổ bánh có phải là nguồn gốc xuất phát ra tên gọi của món bánh này hay không. Tuy cùng một loại bánh, thế nhưng ở mỗi vùng lại có cách chế biến và kích cỡ khác nhau. Nếu như ở Huế, ở Phan Thiết bánh xèo thường được làm nhỏ, thì ở miền Tây Nam Bộ chiếc bánh này lại được làm to và có nhiều nhân hơn hẳn. Nhiều người cho rằng, ai đã từng thưởng thức món bánh xèo miền Tây Nam Bộ giòn rụm được ăn kèm với các loại rau chắc chắn sẽ không thể nào quên được hương vị thơm ngon.

Bánh xèo thường được bán rất nhiều vào mùa mưa, bởi lẽ từng chiếc bánh giòn rụm, nóng hổi được chế biến ngay tại chỗ dễ khiến người ta thấy ấm bụng. Tùy theo đặc trưng vùng miền mà người ta sẽ làm nhân bánh bằng tôm, thịt bò, thịt heo, có vùng thêm nấm và giá để tăng thêm hương vị thơm ngon. Bánh xèo tuy được chế biến đơn giản, tuy nhiên không phải ai cũng có thể làm bánh thành công ngay từ lần đầu tiên vì đó là cả một nghệ thuật. Để có món bánh ngon, bạn cần biết cách gia, trộn bột rất quan trọng, đây là công đoạn ảnh hưởng rất nhiều đến hương vị món bánh. Món bánh thơm ngon với màu vàng tươi của bột nghệ, thêm vị béo béo của nước cốt dừa, bánh được đổ bột thật mỏng sao cho phần mép ngoài của bánh giòn tan, hấp dẫn.

Bánh xèo thường được ăn kèm với nhiều loại rau sống và chấm cùng nước chấm chua ngọt pha cùng nước dùng, chanh, đường, thêm chút cà rốt bào mỏng, ớt, tiêu, các loại rau sống ăn kèm như: cải xanh, rau diếp, tía tô, húng quế, khế chua, chuối chát bào mỏng. Không chỉ hấp dẫn bởi hương vị, mà món bánh này còn hấp dẫn thực khách bởi cách thưởng thức chuẩn điều là phải là dùng tay cầm chiếc bánh lên rồi gói lại bằng rau sống chấm cùng nước mắm chua ngọt.

Từng miếng bánh được nhai trong miệng để cảm nhận hương vị hồn quê đang dần tan nhẹ nơi đầu lưỡi. Mùi vị the của cải bẹ xanh, hương vị thơm nồng của rau thơm được hòa quyện cùng với vị béo, hương vị mằn mặn, ngọt ngọt của nước mắm chua cay sẽ đánh thức toàn bộ vị giác của người thưởng thức.

Bánh xèo không chỉ thơm ngon mà món ăn này còn chứa rất nhiều chất dinh dưỡng có lợi cho sức khỏe. Món bánh này có thể được thưởng thức bất cứ khi nào bạn thích, tuy nhiên hương vị sẽ thơm ngon, hấp dẫn hơn vào những ngày mưa lạnh. Đây không chỉ là món ăn hấp dẫn đối với nhiều người Việt, mà còn là thức quà ẩm thực vô cùng ấn tượng được nhiều du khách quốc tế khen ngợi.

Nem chua Thanh Hóa là món ăn nổi tiếng, là niềm tự hào của người dân nơi đây. Món này được chế biến hết sức kỳ công, qua nhiều công đoạn kỹ lưỡng, từ khâu chọn nguyên liệu cho tới khi đóng gói sản phẩm.

Thịt để làm nem phải là loại “thịt nóng”, nghĩa là khi heo vừa mới xẻ thịt thì người thợ làm nem phải thái, xay, chế biến ngay, không để lâu. Bởi nếu thịt nguội, nem sẽ không có độ bóng cũng như sự kết dính trong quá trình lên men. Ngày trước khi chưa có máy xay thịt, người thợ phải giã thịt bằng tay trên những cối đá lớn. Theo kinh nghiệm của những gia đình làm nem truyền thống, thì thịt giã cối đá sẽ có độ giòn, quánh, dính hơn là thịt xay máy.

Bì lợn cũng phải chọn rất kỹ, heo lấy bì phải là heo cạo chín, nghĩa là làm bằng nước sôi. Có như thế lông mới sạch và khi chế biến sẽ đỡ tốn thời gian. Để có những sợi bì trong, ngon, người thợ phải cạo thật sạch tất cả những phần mỡ còn sót lại trên bì, cho tới khi lớp bì mỏng, trắng tinh, trong suốt thì được. Bì càng làm kỹ bao nhiêu thì khi thái chỉ, bì càng giòn và dai bấy nhiêu.

Khi nguyên liệu chính là thịt và bì đã xong, người thợ sẽ trộn hai hỗn hợp này lại với nhau cùng các loại gia vị muối, bột ngọt, đường, nêm thêm chút nước mắm cho thơm. Sau đó mang hỗn hợp thịt trên ra đóng gói. Mỗi một chiếc nem được người gói cho kèm thêm chút tỏi, lá đinh lăng, ớt, những phụ gia này có tác dụng làm cho hương vị nem trở nên ngon hơn, hấp dẫn hơn và cũng là để cân bằng giữa lạnh (nem chua) với nóng (lá đinh lăng, ớt). Lá chuối gói nem phải là lá chuối ngự vừa xanh vừa dày, bởi trong quá trình vận chuyển và lưu giữ nem vẫn tiếp tục lên men. Để bảo quản được dài ngày, người thợ thường bọc giấy bóng thêm bên trong nem. Thông thường nem gói sau ba ngày là chín, có thể dùng được. Bóc lớp lá chuối màu xanh ở ngoài, đã thấy lộ ra màu hồng của thịt, màu trắng của sợi bì, màu đỏ của ớt.

Khi thưởng thức sẽ gặp vị chua thanh của thịt, dai giòn của sợi bì, cay của ớt, thơm của tỏi, chát ngọt của đinh lăng một hương vị rất riêng mà không phải nem chua nơi nào cũng có như nem chua xứ Thanh. Nem Thanh có vị lạ rất khác với nem chua Hà Nội hay nem lụi ở Huế, lại càng khác xa với nem rán hay nem tai. Nó vừa chua, vừa cay lại có cả vị mặn mà của gia vị, có vị ngọt của thịt làm ta không thể không ăn tiếp vài cái nữa.

Nem chua Thanh Hoá vừa ngon, vừa rẻ nhưng có điều rất lạ và hay là có thể làm đồ nhắm, cũng có khi ăn với cơm. Tiện hơn cả là ở đâu ta cũng có thể nhấm nháp hương vị hấp dẫn của nó. Nghĩ đến nem chua quê mình đầu lưỡi tôi lại cay cay, ngọt ngọt. Khó mà tả được cảm giác sung sướng khi được ăn một vài miếng nem chua ở quê hương mình trong lúc đang ở nơi xa xôi.

Ai đi qua xứ Thanh cũng phải nếm thử hương vị lạ của những chiếc nem xinh xắn. Người dân xứ Thanh vào Nam ra Bắc, dù bận trăm công nghìn việc, dù mang vác nặng nề củng cố đem vài chục chiếc để cho người nhà hoặc biếu người thân. Ngày lễ Tết hoặc cưới xin, nem chua trở thành món ngon không thể thiếu. Kèm với những cặp bánh chưng xanh, những chiếc giò ngày Tết là những xâu nem chua làm từ chất liệu quê hương mời khách đến chơi nhà.

Nếu có dịp dừng chân nơi miền đất này, mời bạn hãy thưởng thức nem chua xứ Thanh. Vị chua chua, ngọt ngọt đậm đà gia vị tạo nên hương thơm khó quên của món nem chua Thanh Hóa. Nem chua Thanh Hóa nổi tiếng xưa nay khắp một dải đất dài từ Nam ra Bắc. Người Thanh Hóa tự hào với bạn bè nơi nơi vì có một thứ quà không phải nơi nào cũng cứ học là làm được, mà nó được truyền kinh nghiệm từ đời này sang đời khác qua nhiều năm nay.

Nhắc đến hương vị ngọt ngào của miền Tây Nam Bộ, người ta không thể không nhắc đến bánh Pía. Món bánh này đã trở thành đặc sản nổi tiếng Sóc Trăng nói riêng và miền Nam nói chung.

Du khách đến Sóc Trăng sẽ có dịp nhìn thấy những chiếc bánh đẹp mắt và thơm ngon trên dọc các con đường của tỉnh. Đó là bánh pía, loại bánh đặc sắc với vị ngọt thanh và hương thơm nguyên chất của trái sầu riêng. Nó chính đặc sản của vùng sông nước Nam Bộ.

“Pía” là âm đọc của người Triều Châu, có nghĩa là bánh. Đôi khi bánh pía còn được gọi là bánh lột da. Bánh pía hình tròn, dẹt, có nhiều lớp da mỏng bao lấy phần nhân đậu xanh (hoặc khoai môn, mứt các loại) mỡ heo, lòng đỏ trứng vịt muối…

Theo lời kể của người dân, bánh pía Sóc Trăng xuất hiện ở vùng đất này từ thế kỷ XVII, theo chân những người Hán di cư đến phương Nam, chiếc bánh này khi đó là lương thực để ăn dọc đường. Đầu tiên, bánh được làm khá đơn giản: vỏ ngoài là bột mì cán thành da mỏng bao quanh nhân ở bên trong. Nhân gồm có đậu xanh và mỡ heo.

Do có nguồn gốc từ Trung Hoa được du nhập vào Việt Nam nên bánh pía cũng có ít nhiều những thay đổi cho phù hợp với điều kiện bản địa. Chẳng hạn như người dân Nam Bộ đặc biệt ưa thích mùi thơm nặng của trái sầu riêng. Do vậy bánh được bổ sung và “biến tấu” thêm mùi vị và từ đó đã trở thành đặc sản nổi tiếng. Sầu riêng khi tách hạt lấy thịt trộn mỡ heo xắt sợi làm nên những mùi vị tuyệt vời của bánh.

Chiếc bánh pía nhìn từ bên ngoài có màu vàng cam. Khi bẻ chiếc bánh làm đôi, chiếc bánh như vành trăng bán nguyệt ẩn vào bên trong là màu đỏ rực của lòng đỏ trứng gà, mùi sầu riêng dậy lên như mời gọi làm cho chiếc bánh pía trông đã ngon lại càng ngon hơn. Được kết hợp hài hòa từ các nguyên liệu khác nhau, bánh pía Sóc Trăng đem lại cho thực khách một cảm giác rất đặc biệt: sự mềm, dẻo của lớp vỏ bánh; vị bùi bùi của khoai môn hay đậu xanh, vị ngọt thơm của hương sầu riêng, vị mặn và chút béo ngậy của trứng muối…

Sở dĩ bánh pía trở thành món quà đặc trưng của xứ Sóc Trăng vì nhiều nơi khác cũng làm loại bánh này nhưng bánh pía Sóc Trăng mang hương vị rất riêng. Cũng là vỏ bột mì, nhân đậu xanh hoặc khoai môn tán nhuyễn trộn với sầu riêng hay mỡ heo xắt sợi, lòng đỏ trứng vịt muối nhưng bánh pía Sóc Trăng không quá ngọt, không quá béo, khiến người thưởng thức ăn hoài không ngán. Lớp vỏ bánh pía Sóc Trăng không khô cứng mà mềm dẻo, mịn màng ôm lấy nhân bánh thơm ngọt phía trong. Nhân bánh có nhiều loại, phổ biến nhất là nhân khoai môn, nhân đậu xanh, sầu riêng. Đậu xanh và khoai môn sau khi hấp chín được trộn đường, xay nhuyễn, chế thêm mỡ nước tạo nên mùi vị bùi bùi, beo béo khá hấp dẫn. Mỡ làm nhân được xắt sợi ướp đường cho săn, để nhằm giữ được lâu. Hột vịt muối đặt giữa nhân, người ta chỉ chọn lấy lòng đỏ. Sau khi cho nhân vào vỏ bánh, người ta thoa bên ngoài vỏ bánh lòng đỏ trứng muối và đưa vào lò nướng.

Mùi thơm của bánh được tạo nên từ những trái sầu riêng tươi ngon được tuyển chọn kỹ càng. Những ưu điểm của bánh pía Sóc Trăng hoàn toàn được tạo nên từ sự cần cù lao động của người thợ bánh, từ việc cán bột làm vỏ bánh sao cho nhuyễn mịn đến việc chọn những nguyên liệu tươi ngon nhất làm nhân, xắt mỡ thật nhuyễn và tỉ mỉ nắn thành những chiếc bánh đều tăm tắp.

Bánh pía Sóc Trăng được ăn kèm với trà nóng thì không gì tuyệt bằng. Cắn một miếng bánh, hớp một ngụm trà, bạn sẽ cảm thấy độ ngọt của bánh hòa cùng vị đắng của trà tan ra nơi đầu lưỡi. Thú ẩm thực tao nhã này đã trở thành một nét đặc trưng của văn hóa Sóc Trăng.

Một khi đã đến Sóc Trăng, du khách không thể bỏ qua những chiếc bánh pía ngọt ngào này. Vừa làm quà biếu, vừa là để thưởng thức sự tinh tế trong ẩm thực của mảnh đất nơi đây. Thật tuyệt vời cho một chuyến du lịch đúng không?

Cứ mỗi độ thu về Hà Nội lại nồng nàn hương cốm. Từ lâu cốm là loại quà đặc trưng của Hà Nội và được đông đảo người dân thủ đô yêu thích, cốm mang trong mình hương vị riêng của Hà Nội, nên để thưởng thức cốm cùng phải thật tinh tế.

Những câu hát du dương ấy như xoáy vào lòng ta nỗi nhớ bâng khuâng về mùa thu Hà Nội, về hoa sữa, về cơm nguội vàng, về cây bàng lá đỏ và không thể thiếu đó là hương cốm nồng nàn.

Cốm được làm từ lúa nếp non, ngon nhất là cốm làm từ nếp cái hoa vàng trong cả hai mùa lúa chiêm và lúa mùa. Và người làm cốm thường dùng lúa mùa vào khoảng cuối hè đầu thu (khoảng rằm tháng 7 đến hết tháng 9 âm lịch). Vào tháng 4 tháng 5 âm lịch có nơi như ở cánh đồng Gội (Dịch Vọng, Từ Liêm, Hà Nội) đã lúa sớm nên đã có cốm bán gọi là cốm chiêm.

Nằm ở phía Tây Hà Nội, làng Vòng thuộc phường Dịch Vọng Hậu, quận Cầu Giấy. Từ bao đời nay cốm làng Vòng đã nức tiếng khắp cả nước. Nói đến cốm Vòng phải là thử cốm dẹt, màu xanh non làm từ nếp cái hoa vàng qua kỳ đồ sữa. Để làm nên những hạt cốm thơm ngon phải qua rất nhiều công đoạn. Khi cây lúa hoe hoe vàng, chỉ mười ngày nữa là gặt rộ cũng là lúc người làng Vòng đi chọn ngắt từng bông dài, hạt mấy về chế biến. Muốn cốm ngon thì phải cắt lúa đúng lúc. Lúc già hạt cốm không còn xanh, cứng và gãy nát. Lúa non quá, hạt cốm bết vào vỏ trấu, nhào mất ngon. Thường lúa gặt hôm nào đem rang và giã luôn hôm đó. Rang lúa sao cho vừa lửa, hạt cốm chín tới, không giòn mà tróc trấu là công đoạn khó nhất trong nghề làm cốm. Giã cốm bằng loại cối riêng, nhịp chày nhè nhẹ, nhịp nhàng, đều đều và khoan thai như vậy cốm mới mịn và dẻo.

Mang trong mình hương vị riêng của Hà Nội, nên để thưởng thức cốm cũng phải thật tinh tế. Cốm được gói vào lá sen già ấp ủ hương hoa sen tinh khiết hoặc lá khoai ráy xanh non, bóng nõn mỡ màng và buộc bằng sợi rơm vàng óng.

Các bà, các mẹ bán cốm thường ăn mặc theo lối xưa với khăn xếp, áo cánh cổ lá sen, gánh đôi thúng với một bó lạt bằng rơm nếp nhuộm mạ xanh ngắt gắn trên đầu quang gánh. Chiếc mẹt đặt úp trên một bên thúng xếp vài chiếc lá sen để gói cốm. Hình ảnh ấy dù đã trở thành quá vãng nhưng vẫn mãi là hình ảnh đẹp, thơ và trong lành của nghề cốm nói riêng và người Hà Nội nói chung.

Giờ đi qua các con phố của Hà Nội, đâu đó thoảng trong hơi gió cái hương thơm nhè nhẹ của cốm. Hà Nội vào thu thật đẹp, cảnh sắc khí trời đều khiến con người ta muốn đắm chìm, muốn yêu thương và muốn hòa mình cùng thiên nhiên huyền ảo. Thu Hà Nội với cảnh sắc vàng của lá, sắc trắng của hoa và sắc xanh non của cốm đã tạo nên một bức tranh tuyệt đẹp, gieo rắc trong lòng người nhiều nỗi niềm bâng khuâng!

Văn Mẫu Lớp 8: Thuyết Minh Về Thể Loại Văn Học Truyện Ngắn 2 Dàn Ý &Amp; 7 Bài Văn Hay Lớp 8

1. Mở bài

Giới thiệu ngắn gọn về thể loại truyện ngắn.

2. Thân bài

– Khái niệm truyện ngắn:

Hình thức tự sự nhỏ.

Tập trung miêu tả một biến cố, sự kiện, hành động của nhân vật.

– Đặc điểm của truyện ngắn:

Dung lượng ngắn.

Ít sự kiện, nhân vật.

Truyện diễn ra trong khoảng thời gian và không gian hẹp.

Không kể toàn bộ quá trình, diễn biến của đời người mà chỉ kể một giai đoạn, một khoảnh khắc để truyền tải những nội dung, ý nghĩa sâu sắc

– Ý nghĩa: Ý nghĩa nhân sinh, ý nghĩa xã hội sâu sắc.

3. Kết bài

Khái quát ngắn gọn cảm nhận của bản thân.

I. Thân bài

Dẫn dắt từ các thể loại của văn học: Sự phong phú, đa dạng của các thể loại văn học, mỗi thể loại có đặc trưng riêng

Giới thiệu về thể loại truyện ngắn: là một trong những thể loại tiêu biểu

II. Thân bài

– Giới thiệu định nghĩa truyện ngắn: Truyện ngắn là một thể loại văn học. Nó thường là các câu truyện kể bằng văn xuôi và có xu hướng ngắn gọn, súc tích và hàm nghĩa hơn các câu truyện dài như tiểu thuyết. Thông thường truyện ngắn có độ dài chỉ từ vài dòng đến vài chục trang, trong khi đó tiểu thuyết rất khó dừng lại ở con số đó. Vì thế, tình huống truyện luôn là vấn đề quan trọng bậc nhất của nghệ thuật truyện ngắn.

– Giới thiệu đặc điểm của truyện ngắn:

Truyện ngắn thì gây cho người đọc một cái nút, một khúc mắc cần giải đáp. Cái nút đó càng ngày càng thắt lại đến đỉnh điểm thì đột ngột cởi tung ra, khiến người đọc hả hê, hết băn khoăn.

Truyện ngắn có tính cô đọng và mở rộng, súc tích và ngắn. Dĩ nhiên đây không phải là chuyện dài ngắn đơn thuần, vì một truyện ngắn mười hai trang có thể chứa đựng nhiều ý nghĩa hơn là một cuốn tiểu thuyết bốn trăm trang. Chúng ta đang nói đến một phạm trù khác của các tác phẩm hư cấu nói chung.

– Truyện ngắn cũng chứa đựng tất cả các nguồn lực y như tiểu thuyết: ngôn ngữ, nội dung, nhân vật và phong cách. Tiểu thuyết gia có thể sử dụng phương tiện nghệ thuật nào thì nhà văn viết truyện ngắn cũng có thể sử dụng các phương tiện đó. Có thể nói, truyện ngắn là bản tình ca viết bằng văn xuôi.

III. Kết bài

Khẳng định vai trò, vị trí của thể loại truyện ngắn trong sự phát triển của văn học

Bậc thầy của truyện ngắn thế giới Raymond Carver đã có câu nói rất hay rằng: “Tác phẩm hay nhất, tác phẩm hấp dẫn và thỏa mãn nhất về nhiều mặt, thậm chí có lẽ tác phẩm có cơ hội lớn nhất để trường tồn, chính là tác phẩm được viết dưới dạng truyện ngắn”. Điều đó không sai bởi nền văn học Việt Nam phát triển thì không thể không công nhận những đóng góp tuyệt diệu của thể loại truyện ngắn, nó dung dị nhưng luôn mang đến cho người đọc những cái nhìn sâu sắc, chân thực nhất về mọi khía cạnh của cuộc sống.

Văn học là một thế giới không bao giờ đóng trong một khuôn khổ mà nó luôn mở ra với muôn hình vạn trạng, đa dạng từ ngôn từ, hình ảnh đến cốt truyện, tinh tế trong cách chọn các biện pháp tu từ, nghệ thuật câu đưa người đọc đi từ cảm nhận này đến những bất ngờ, nút thắt khác. Nếu xem văn học là một nghệ thuật thì các nhà văn chính là những người nghệ sĩ không ngừng tìm kiếm, sáng tạo những điều nhân văn, đặc trưng có phong cách, sở trường riêng biệt làm nên một bức tranh văn học vĩ đại của Việt Nam. Trong những thể loại như tiểu thuyết, truyền thuyết, thơ,… thì truyện ngắn được xem là một cây đại thụ lớn phát triển từ lâu, ghi đậm dấu ấn theo năm tháng với rất nhiều tác phẩm nổi tiếng như “Chiếc lược ngà – Nguyễn Quang Sáng”, “Gió đầu mùa – Thạch Lam”, “Tắt đèn – Ngô Tất Tố”… Có thể thấy các nhà văn thể hiện rất thành công những tác phẩm truyện ngắn nói riêng cũng như những tác phẩm văn học với nhiều thể loại khác, nó mang dấu ấn riêng của dân tộc và thời đại. Trong cái riêng biệt của phong cách nhà văn người ta tìm thấy diện mạo của tâm hồn đẹp, tính cách đặc trưng của một dân tộc, đó là điều khiến Tô Hoài có câu: “Mỗi trang văn đều soi bóng thời đại mà nó ra đời” (Tô Hoài). Ở truyện ngắn chính là thể loại thể hiện rõ nhất những điều này, từng câu văn, bối cảnh, cốt truyện, tình tiết của mỗi tác phẩm truyện sẽ mang hơi thở của thời đại, dấu chân của nhà văn. Một thể loại văn học gắn liền cùng cuộc sống con người rất chân thực, dễ hiểu, súc tích nhưng vô cùng cuốn hút là nhận xét dành cho truyện ngắn. Trải qua nhiều thăng trầm thì đến nay truyện ngắn đã có một chỗ đứng vô cùng vững chắc trong nên văn học, nó đã khẳng định với không ít những tác phẩm để đời, bất tử theo thời gian, có thể kể đến “Số đỏ – Vũ Trọng Phụng”, “Chiếc thuyền ngoài xa-Nguyễn Minh Châu”, “Hai đứa trẻ – Thạch Lam”, “Chí Phèo – Nam Cao”…

Thể loại truyện ngắn từ lâu đã trở thành một điểm nhấn quan trọng của Văn học hiện đại Việt Nam. Thời điểm vượt trội, tạo nên dấu ấn mạnh mẽ của thể loại truyện ngắn là vào thế kỉ XX, nó phát triển bền bỉ, ngày càng chất lượng hơn gắn cùng sự đóng góp của những tên tuổi, đó là Phạm Duy Tốn, Nguyễn Công Hoan, Thạch Lam, Nam Cao, Tô Hoài… Trong thời kì chiến tranh, truyện ngắn có sự chậm lại nhưng không vì thế mà nó ngừng hẳn, nó chảy chậm mà chắc với những tác phẩm tái hiện một cách chân thực nhất từ đời sống, chế độ cùng con người vào thời kì đó. Chúng ta làm sao quên được Chị Dậu hiện lên là người phụ nữ điển hình chất phác, cần cù cùng sự phơi bày một chế độ bọn cường hào thống trị trước Cách Mạng đó là sự tham lam, bản chất tàn bạo của tác phẩm Tắt đèn của Ngô Tất Tố. Khi hòa bình lặp lại trên nước nhà thì có thể nói là giai đoạn truyện ngắn vượt lên, tỏ rõ mình trong nền văn học với không ít những tác phẩm thành công mang đậm giá trị nhân văn từ câu chuyện đời sống con người.

Nền văn học có phát triển cùng nhiều thể loại thơ, tiểu thuyết hiện đại thì truyện ngắn vẫn mãi có một chỗ đứng vững chắc, bền bỉ theo năm tháng. Những tác phẩm kiệt tác trường tồn mãi, là những lát cắt chân thực từ đời sống, xã hội Việt Nam sẽ là những áng văn bất hủ đi cùng tên tuổi của nhà văn. Thể loại văn học truyện ngắn sẽ mãi là nơi để những nhà văn có thể khai thác, chọn để viết và người đọc đón nhận bằng cả trái tim.

Truyện ngắn là thể loại gần gũi với đời sống hằng ngày, súc tích, dễ đọc, lại thường gắn liền với hoạt động báo chí, do đó có tác dụng, ảnh hưởng kịp thời trong đời sống. Nhiều nhà văn lớn trên thế giới và nước ta đã đạt tới đỉnh cao của sự nghiệp sáng tạo nghệ thuật chủ yếu bằng những truyện ngắn xuất sắc của mình.

Thể loại văn học – truyện ngắn xuất hiện trên một tạp chí xuất bản đầu thế kỉ XIX, phát triển lên đến đỉnh cao nhờ những sáng tác xuất sắc của văn hào Nga Chekhov và trở thành một hình thức nghệ thuật lớn của văn học thế kỉ XX. Mặc dù thuật ngữ truyện ngắn ra đời muộn (khoảng cuối thế kỉ XIX) nhưng bản thân truyện ngắn đã xuất hiện và tồn tại ngay từ buổi bình minh của nhân loại, khi con người biết sáng tác văn chương. Trải qua hàng ngàn năm, với bao biến cố thăng trầm của thể loại, ngày nay truyện ngắn đã chiếm lĩnh được vị trí quan trọng trên văn đàn trong kỷ nguyên hiện đại, hậu hiện đại. Khi con người bị dồn ép về mặt thời gian hơn bao giờ hết, chúng ta không có đủ thời gian cho những bộ tiểu thuyết đồ sộ như: Tây du ký, Tam quốc diễn nghĩa, Thuỷ hử, Hồng Lâu mộng, Những người khốn khổ, Chiến tranh và hòa bình, Sông Đông êm đềm… Thì điều đó khiến thể loại truyện ngắn ngày càng thu hút độc giả.

Raymond Carver – một trong những bậc thầy truyện ngắn thế giới ghi nhận: ngày nay “tác phẩm hay nhất, tác phẩm hấp dẫn và thỏa mãn nhất về nhiều mặt, thậm chí có lẽ tác phẩm có cơ hội lớn nhất để trường tồn, chính là tác phẩm được viết dưới dạng truyện ngắn”. Truyện ngắn gắn chặt với báo chí. Đây là một lợi thế lớn, bởi hiện tại báo chí kể cả báo điện tử đang bùng nổ với tốc độ chóng mặt. Người đọc quen và thích đọc truyện ngắn trong vài chục phút hoặc trong một vài giờ. Hơn nữa, sau nhiều năm chiếm lĩnh văn đàn, thơ, kịch, tiểu thuyết dường như vắt kiệt về khả năng hồi sinh và đổi mới thể loại. Trong khi đó truyện ngắn còn là mảnh đất tương đối trống, điều này tạo điều kiện hết sức thuận lợi để các cây bút trẻ khẳng định tài năng.

Lịch sử phát triển của nền văn học hiện đại và đương đại Việt Nam gắn liền với truyện ngắn. Thế kỉ XX, truyện ngắn Việt Nam phát triển liên tục và vượt trội lên trên tất cả các thể loại, bắt đầu từ những năm hai mươi với sự đóng góp của Nguyễn Bá Học, Phạm Duy Tốn, Hồ Biểu Chánh, Nguyễn Công Hoan, Thạch Lam, Nam Cao, Kim Lân, Tô Hoài, Bùi Hiển, Vũ Bằng… Từ sau Cách mạng tháng Tám truyện ngắn có chững lại nhưng vẫn chảy liên tục với tên tuổi: Trần Đăng, Vũ Tú Nam, Nguyên Ngọc, Nguyễn Khải, Nguyễn Quang Sáng, Vũ Thị Thường, Lê Minh, Nguyễn Minh Châu… Chiến tranh kết thúc, truyện ngắn vượt lên tỏ rõ sự ưu việt của mình trong sự khám phá nghệ thuật đời sống. Nhất là 1986 trở đi, truyện ngắn gần như đã độc chiếm toàn bộ văn đàn, hằng ngày trên các báo và các tạp chí có trên dưới hai mươi truyện ngắn được in. Thực tế ấy đã kích thích mạnh đến việc sáng tác, phê bình – lý luận về truyện ngắn những năm gần đây. Nhiều cuộc thi sáng tác truyện ngắn được khởi xướng. Nhiều cuộc hội thảo đã được mở ra và nhiều ý kiến có khi trái ngược nhau cũng đã được trình bày. Điều này chứng tỏ, truyện ngắn đang là thể loại được các nhà văn quan tâm, nỗ lực cách tân bậc nhất. Nguyễn Huy Thiệp đã từng tạo nên một cơn lốc xoáy văn học. Gần đây không khí văn chương được nóng lên bởi tên tuổi Đỗ Hoàng Diệu với “Bóng đè”, Nguyễn Ngọc Tư với “Cánh đồng bất tận”. Mỗi nhà văn một bút pháp riêng tạo nên “hiệu ứng” truyện ngắn hay và được gắn với các tên gọi “bội thu”, “thăng hoa”, “được mùa”, “lên ngôi”, điều đó chứng tỏ truyện ngắn đã được đổi mới.

Như vậy truyện ngắn là một thể loại văn học hiện đại. Ngày nay nó đã và đang phát huy được ưu thế và đóng góp không nhỏ vào thành tựu của văn học Việt Nam thế kỉ XX, XXI và mãi về sau.

Từ trước tới nay chúng ta đã được đọc nhiều tác phẩm viết dưới nhiều thể loại: truyền thuyết, truyện cười, truyện ngắn, tiểu thuyết… nhưng truyện ngắn có nhiều điểm khác với các thể loại truyện khác. Chúng ta sẽ cùng nhau tìm hiểu về truyện ngắn.

Truyện ngắn thường đề cập đến những vấn đề lớn của cuộc đời, thường cho con người những bài học về cách sống cách làm người tu dưỡng con người những tư tưởng tốt đẹp. Truyện ngắn phải được quan tâm và phát triển nhiều hơn nữa để kho tàng văn học Việt Nam ngày càng phong phú, đặc sắc.

Truyện ngắn là một thể loại văn học gần gũi và ta có thể sẽ tiếp xúc hàng ngày với chúng. Có rất nhiều những nhận định khác nhau về truyện ngắn, song, truyện ngắn là hình thức tự sự loại nhỏ để tái hiện lại một mảnh nhỏ của cuộc sống, có thể là một biến cố, một hành động, một trạng thái trong cuộc đời của nhân vật, thể hiện một khía cạnh của tính cách hay một mặt nào đó của đời sống xã hội. Truyện ngắn thường có dung lượng ngắn, khoảng vài trang hoặc vài chục trang, sự kiện và nhân vật không nhiều. Còn những truyện cực ngắn chỉ khoảng vài trăm chữ.

Trước hết, truyện ngắn có rất ít nhân vật và sự kiện. Các truyện ngắn thường chỉ tập trung tái hiện một khía cạnh của tính cách nhân vật hay một mặt nào đó của xã hội nên số lượng nhân vật rất ít, thậm chí có những truyện chỉ có 2 – 3 nhân vật. Hệ quả của số lượng nhân vật ít là biến cố trong, sự kiện trong truyện cũng không nhiều. Bởi người nghệ sĩ sẽ chỉ lựa chọn một hoặc một vài sự kiện, biến cố trong cuộc đời nhân vật để khắc họa tính cách, số phận của nhân vật mà thôi. Như trong tác phẩm Tôi đi học tác giả đã lựa chọn cảm xúc của nhân vật tôi trong ngày khai giảng đầu tiên của cuộc đời, nhân vật trong truyện chỉ có người mẹ và nhân vật tôi. Truyện ngắn Lão Hạc có nhân vật lão Hạc, ông giáo, Binh Tư, cậu con trai, vợ ông giáo (chỉ được nhắc qua), những người dân trong làng (xuất hiện với vai trò là người chứng kiến cái chết của lão Hạc) và có sự kiện nổi bật trong tác phẩm là khi lão Hạc quyết định bán con chó Vàng để không phải ăn vào tiền của cậu con trai. Còn trong truyện ngắn Chiếc lá cuối cùng của O. Hen-ri câu chuyện chỉ xoay quanh các nhân vật Giôn-xi, cụ Bơ-men và Xiu với bức họa Chiếc lá cuối cùng.

Thứ hai, cốt truyện của truyện ngắn thường diễn ra trong một không gian, thời gian hạn chế. Nó không kể trọn vẹn một quá trình diễn biến một đời người mà chọn lấy khoảnh khắc, những “lát cắt” của cuộc sống để thể hiện. Thanh Tịnh đã lựa chọn không gian biến đổi từ nhà tới trường học, trong khoảng thời gian như được kéo dài từ tối hôm trước đến sáng hôm sau, khi con bước chân qua cánh cổng trường để bắt đầu đi học. Nam Cao lựa chọn khắc họa lão Hạc trong khoảng thời gian lão sống xa con, lúc lão ốm đau bệnh tật và lựa chọn cái chết đau đớn đế giữ lại mảnh vườn cho con trai. Còn O. Hen-ri lại bắt đầu câu chuyện của mình bằng sự chán nản, tuyệt vọng để rồi người đọc thấy được sự hồi sinh trong tâm hồn cô gái trẻ khi trông thấy bức tranh vẽ chiếc lá cuối cùng bên bậu cửa sổ của cụ Bơ-men. Cả ba tác phẩm người đọc chỉ nhìn thấy một đoạn, một lát cắt trong cuộc đời của nhân vật chứ không phải là toàn bộ cuộc đời họ, từ lúc họ sinh ra, lớn lên, trưởng thành như thế nào. Điều ấy cũng đồng nghĩa với truyện ngắn chỉ là những khoảnh khắc của cuộc sống, của đời người, nhưng chừng ấy cũng đủ để người đọc nhận ra được bản chất của nhân vật, con người trong tác phẩm ấy.

Tuy dung lượng không dài song truyện ngắn là một thể loại mang tới cho người đọc nhiều cung bậc cảm xúc và những bài học nhận thức sâu sắc trong cuộc sống. Đến tận ngày nay, vai trò của truyện ngắn trong đời sống của con người vẫn không thể phủ nhận.

Truyện ngắn là một trong những thể loại văn học vô cùng quan trọng. Đây cũng là thể loại được nhiều bạn đọc yêu thích. Khi tìm hiểu về thể loại này, chúng ta có thể thấy được những đặc điểm riêng để phân biệt với các thể loại khác.

Trước hết, về khái niệm truyện ngắn, sẽ có rất nhiều cách định nghĩa khác nhau. Nhưng hiểu đơn giản thì đúng như tên gọi của nó, truyện ngắn là một thể loại văn học, với các câu truyện được kể bằng văn xuôi. Có dung lượng ngắn gọn, súc tích và hàm nghĩa hơn các câu truyện dài như tiểu thuyết. Thông thường truyện ngắn có độ dài chỉ từ vài dòng đến vài chục trang, trong khi đó tiểu thuyết rất khó dừng lại ở con số đó. Vì thế, tình huống truyện luôn là vấn đề quan trọng bậc nhất của nghệ thuật truyện ngắn.

Về lịch sử hình thành, trên thế giới, ở Trung Quốc và Nhật Bản, trước đây người ta vẫn coi truyện ngắn thuộc thể loại tiểu thuyết, được gọi là “tiểu thuyết đoản thiên” để phân biệt với loại tiểu thuyết chương hồi dài tập hay “tiểu thuyết trường thiên”. Người Việt Nam ngày nay dùng từ truyện ngắn để chỉ “tiểu thuyết đoản thiên” và tiểu thuyết để chỉ “tiểu thuyết trường thiên”. Còn ở phương Tây, thể loại truyện ngắn ra đời tương đối muộn, xuất hiện trên một tạp chí xuất bản đầu thế kỷ 19, phát triển lên đến đỉnh cao nhờ những sáng tác xuất sắc của văn hào E.T.A. Hoffmann và Anton Chekhov, sau đó trở thành một hình thức nghệ thuật lớn của văn học thế kỷ XX. Mặc dù, trước đó, truyện ngắn đã tồn tại dưới hình thức truyền miệng truyền thống trong dân gian như các truyện ngụ ngôn, nhưng chỉ đến khi có sự xuất hiện ồ ạt của một tầng lớp độc giả biết đọc biết viết ở thế kỷ XIX ở phương Tây.

Cuối cùng, mỗi một tác phẩm truyện ngắn đều gửi gắm một nội dung tư tưởng nào đó của nhà văn. Có thể kể đến một số tác phẩm thuộc thể loại truyện ngắn đã được học trong chương trình như: Tôi đi học (Thanh Tịnh), Lão Hạc (Nam Cao), Chiếc lá cuối cùng (O.Henry)…

Tóm lại, đây là một thể loại văn học vô cùng quan trọng không chỉ của nền văn học Việt Nam mà còn đối với văn học thế giới.

Mỗi tác phẩm văn học là kết tinh của sáng tạo, tài năng, trí tuệ của người nghệ sĩ. Để truyền tải những nội dung, tư tưởng đến độc giả, mỗi tác giả lại lựa chọn một hình thức riêng, có người chọn thể loại thơ, người chọn tiểu thuyết, và cũng rất nhiều người lựa chọn thể loại truyện ngắn.

Truyện ngắn là một thể loại tự sự nhỏ, tác giả sẽ trực tiếp hoặc gián tiếp thông qua nhân vật để kể lại một số phận, một cuộc đời, một biến cố hay sự kiện có vấn đề nào đó, qua đó thể hiện thái độ, góc nhìn và mang đến cho độc giả những chiêm nghiệm, bài học.

Advertisement

Có rất nhiều nhà văn lựa chọn truyện ngắn để ươm mầm cho tài năng, ý tưởng của mình bởi dung lượng của truyện nhỏ, nhân vật ít, thường chỉ tập trung vào một khía cạnh, một vài nhân vật và sự kiện nhỏ. Chẳng hạn như truyện ngắn “Lão Hạc” của Nam Cao tập trung khắc họa diễn biến tâm trạng của Lão Hạc sau khi bán cậu Vàng, hay trong truyện “Chiếc lá cuối cùng” xoay quanh thái độ của nhân vật Giôn-xi với sự sống qua những chiếc lá thường xuân cuối cùng.

Không gian và thời gian của truyện ngắn không trải dài như tiểu thuyết mà thường hẹp, các tác giả thường lựa chọn một thời điểm, một sự kiện, thậm chí một khoảnh khắc để trình bày những nội dung, ý tưởng. Ví dụ, trong truyện ngắn Tôi đi học, nhà văn Thanh Tịnh đã lựa chọn thời gian là lần đầu tiên đi học, không gian là nhà và trường học.

Truyện ngắn thường tập trung mô tả một khía cạnh của cuộc sống, một biến cố, sự kiện nào đó xảy đến trong cuộc đời nhân vật. Qua những hành động, lời nói tác giả truyện ngắn làm nổi bật được tính cách nhân vật mà sâu xa hơn là phản ánh mặt tốt hay cái hạn chế của xã hội đương thời. Ví dụ: Qua cuộc đời bi kịch của Lão Hạc, đặc biệt là hành động ăn bả chó của lão Hạc, tác giả Nam Cao không chỉ đề cao, trân trọng con người giàu nhân cách của Lão Hạc mà còn lên án, phê phán xã hội đương thời đã đẩy con người ta vào bước đường cùng.

Một đặc điểm nổi bật khác của truyện ngắn không thể bỏ qua đó chính là cốt truyện. Cốt truyện ngắn thường tập hợp các tình tiết, sự kiện xảy ra nối tiếp nhau, các này tác động đến cái kia để đẩy mâu thuẫn, bi kịch của nhân vật lên đến cao trào và buộc nhân vật phải lựa chọn, giải quyết. Vẫn là trong truyện ngắn Lão Hạc, đứng trước 2 lựa chọn: Tiếp tục tiêu tiền đề dành cho con để duy trì sự sống hay sống lay lắt, đánh mất chính mình, làm liên lụy đến hàng xóm, lão Hạc đã lựa chọn cái chết để bảo vệ nhân cách, để làm tròn trách nhiệm của một người cha.

Tuy dung lượng truyện ngắn nhỏ, khi kể cũng không kể trọn vẹn quá trình, diễn biến của đời người nhưng lại có khả năng truyền tải lớn. Thông qua một cuộc đời, một bi kịch, một hành động trong truyện ngắn, tác giả đã khái quát được những hiện thực trong xã hội, trong chính cuộc sống của con người, qua đó mang đến cho người đọc những chiêm nghiệm sâu sắc.

Truyện ngắn trải qua quá trình phát triển bền bỉ, truyện ngắn xuất hiện từ những ngày con người bắt đầu biết sáng tác văn chương và phải đến cuối thế kỉ XIX thì truyện ngắn mới có cơ sở phát triển mạnh mẽ và tạo nên những tiếng vang lớn.

Ở Việt Nam, truyện ngắn bắt đầu phát triển mạnh mẽ nhất trong những năm hai mươi của thế kỉ XX với những đóng góp của các nhà văn lớn như: Nguyễn Bá Học, Hồ Biểu Chánh, Nguyễn Công Hoan, Thạch Lam…

Truyện ngắn là thể loại văn học học tiêu biểu của nền văn học hiện đại Việt Nam. Ngày nay truyện ngắn vẫn không ngừng phát triển với nhiều cây bút tài năng. Từ quá khứ, hiện tại đến tương lai, truyện ngắn vẫn là thể loại có nhiều đóng góp lớn cho nền văn học nước nhà.

Truyện ngắn là một thể loại văn học thuộc hình thức tự sự loại nhỏ. Đây là một trong những thể loại văn học vô cùng quan trọng.

Truyện ngắn khác với truyện vừa ở dung lượng nhỏ, tập trung mô tả một mảnh cuộc sống, một biến cố, một hành động, một trạng thái nào đó trong cuộc đời nhân vật, thể hiện một khía cạnh của tính cách hay một mặt nào đó của đời sống xã hội.

Truyện ngắn “Tôi đi học” của Thanh Tịnh ghi lại một biến cố quan trọng trong cuộc đời đứa trẻ khi em từ thế giới gia đình bước vào thế giới nhà trường. Trong “Chiếc lá cuối cùng” của O. Hen-ri, đó là việc Giôn-xi bị ốm nặng nằm chờ chết; việc cụ Bơ-men lặng lẽ vẽ chiếc lá cuối cùng trong một đêm mưa tuyết dữ dội để cứu sống cô gái, và cụ đã ra đi sau khi hoàn thành kiệt tác ấy. Còn trong “Lão Hạc”, Nam Cao ghi lại mảnh đời cuối cùng của người nông dân già nghèo khổ, đơn độc, nhưng trước khi tìm về cái chết đã lo lắng thật chu đáo cho đứa con lúc nó trở về. Truyện ngắn thường có ít nhân vật và sự kiện như trong ba truyện ngắn trên.

Cốt truyện của truyện ngắn thường diễn ra trong một không gian, thời gian hạn chế. Nó không kể trọn vẹn một quá trình diễn biến một đời người mà chọn lấy những khoảnh khắc, những lát cắt của cuộc sống để thể hiện. “Tôi đi học” chỉ thu lại trong buổi tựu trường đầu tiên trên con đường từ nhà đến trường, trên sân trường, trong lớp học. “Lão Hạc” chỉ là khoảnh khắc cuối đời của nhân vật từ nhà của lão sang nhà ông giáo. “Chiếc lá cuối cùng” được kể lại trong những ngày Giôn-xi ốm nằm ở căn phòng nhỏ có chiếc cửa sổ trông ra cây thường xuân.

Văn Mẫu Lớp 9: Thuyết Minh Về Cây Phượng Dàn Ý &Amp; 16 Bài Văn Thuyết Minh Lớp 9 Hay Nhất

Dàn ý thuyết minh về cây phượng

I. Mở bài

Dẫn dắt, giới thiệu về cây phượng (loài cây thân thuộc với tuổi học trò, thường trồng trong sân trường, lưu giữ nhiều kỷ niệm,…).

II. Thân bài

1. Giới thiệu khái quát về cây phượng:

Tên gọi: phượng, phượng vĩ, điệp tây,…

Nguồn gốc: từ Madagascar, trong các cánh rừng ở miền tây Malagasy.

Nơi sinh sống chủ yếu: vùng nhiệt đới, cận nhiệt đới.

2. Đặc điểm của cây phượng:

Loại cây: cây to, thân gỗ

Chiều cao thân cây: có thể cao đến 20 mét.

Lá cây: lá phức, bề ngoài lá giống lông chim, màu lục nhạt,…

Hoa phượng: có hình dáng giống chim phượng xòe đuôi, cánh hoa lớn gồm 4 cánh màu đỏ tươi dài 8cm, cánh hoa thứ 5 mọc thẳng có lốm đốm màu trắng-vàng, cam- vàng

Quả phượng: thuộc loại quả đậu, khi chín có màu nâu sẫm, quả dài, rất nặng.

3. Vai trò của cây phượng:

Tán cây rộng, che bóng mát.

Hoa nở đẹp, tăng vẻ mỹ quan cho không gian được trồng.

Hạt rất bùi, có thể ăn được.

Nở hoa làm dấu chỉ thời gian cho mùa hè.

Cánh hoa đẹp thường được dùng ép vào vở, lưu lại kỉ niệm tuổi học trò.

Làm nguồn tài liệu sáng tác cho văn nghệ, thơ ca,…

4. Ý nghĩa của cây phượng:

Gắn với nhiều kỉ niệm bên mái trường.

Loài cây mang nhiều ý nghĩa biểu trưng, gửi gắm nhiều tình cảm của lứa tuổi học trò.

III. Kết bài

Khái quát cảm nghĩ của bản thân về cây phượng (loài cây ý nghĩa, chất chứa nhiều cảm xúc, nỗi niềm,….).

Thuyết minh về cây phượng – Mẫu 1

Đối với mỗi học sinh chúng ta, phượng là loài cây gần gũi mà nhất. Khi hè về, những tiếng ve râm ran kêu trên những nhành phượng đỏ rực cũng là lúc ta tạm xa thầy cô, bè bạn. Bởi thế mà loài hoa phượng luôn có một ý nghĩa đặc biệt trong lòng mỗi cô cậu học trò chúng ta.

Loài cây này được người ta tìm thấy tại những cánh rừng ở Madagascar. Ngoài ra, chúng còn được tìm thấy nhiều ở vùng nhiệt đới và cận nhiệt đới. Cây phượng thuộc loài thực vật thân gỗ, có hoa, gồm hai loại là phượng đại thụ và phượng vĩ. Ngoài ra cũng có thể phân loại phượng theo màu sắc của hoa ví dụ như phượng vàng, phượng đỏ,…

Trung bình mỗi cây phượng cao từ 9m – 15m, có loại cao hơn có thể lên tới 20 mét. Thân phượng có lớp vỏ màu nâu nhạt, da không quá mượt mà nhưng cũng không phải quá sần sùi như nhiều loại cây khác. Bề rộng thân bằng một vòng tay người ôm hoặc có thể nhỏ hơn, lớn hơn tùy thuộc vào năm tuổi và sự sinh trưởng của cây. Rễ phượng ngoằn ngoèo, khá lớn và trồi lên trên mặt đất như hình những chú rắn nâu khổng lồ, chúng vươn ra khá dài để hút chất dinh dưỡng trong lòng đất nuôi cây phát triển. Phần ngọn của cây phượng là những tán lá dày đặc và toả rộng ra như những chiếc ô lớn bao trùm cả khoảng không rộng, tạo bóng mát cho mỗi sân trường, mỗi còn đường có dấu ấn của phượng vĩ. Lá phượng nhỏ, hình bầu, có màu xanh nhạt khi nôn, khi đã trưởng thành lá có màu xanh đậm. Vào mùa lá rụng, phượng chuyển màu lá từ xanh sang vàng nhạt, những lá phượng rơi bay bay trong gió nhẹ rồi in mình lên mặt đất thật đẹp và duyên dáng lạ thường. Phượng nở hoa vào mùa hạ, hoa phượng đỏ rực, những chùm hoa phượng đua nhau bùng cháy trên nền trời xanh thẳm, đẹp đẽ và rực rỡ. Những cánh hoa phượng khá lớn, có cánh dài đến 8cm, xếp đặt nối nhau, phần nhụy hoa có màu nâu đỏ, rất đẹp và đáng yêu. Chúng em thường rủ nhau nhặt những bông hoa phượng rơi rụng ép vào trong trang vở học trò in hình những chú bướm để lưu giữ chút kỉ niệm tuổi thơ. Phượng vĩ cũng có quả, quả phượng khi còn non có màu xanh, cong queo và rất nặng.

Phượng vĩ phát triển và sinh trưởng tốt trong khí hậu nhiệt đới và cận nhiệt đới, loài cây này có khả năng chịu hạn mặn tốt vì vậy nó có thể sống được nhiều nơi, từ trung du, miền núi đến đồng bằng hay ven biển. Trong điều kiện ánh sáng đầy đủ cây phát triển rất nhanh, hoa đẹp và thân lớn, cho bóng mát rộng. Hiện nay, ở nhiều nơi trên thế giới, ta không khó để tìm kiếm những hàng phượng vĩ đỏ rợp trời, có thể kể đến khu vực Caribe, sa mạc Arizona hay California của Hoa Kì, ngoài ra còn được tìm thấy nhiều ở quần đảo Bắc Mariana. Ở đất nước ta, vào thế kỉ XIX, phượng vĩ được du nhập và trồng ở nhiều nơi như Đà Nẵng, Hải Phòng,…..Ngày này, nó được trồng phổ biến ở nhiều nơi khắp mọi miền đất nước từ Bắc vào Nam. Đặc biệt, phải kể đến thành phố Hải Phòng, nơi được mệnh danh là thành phố hoa phượng đỏ.

Phượng có vai trò trong việc toả bóng mát, đặc biệt là những ngày hè nóng nực, ngồi dưới bóng phượng tỉ tê, cùng nhau làm bài tập thật mát mẻ và dễ chịu biết bao. Trên những cung đường của thành phố, hai hàng phượng già toả bóng xanh, rợp cả những con đường che mát người lại qua, khung cảnh vừa yên bình lại vừa nên thơ. Phượng còn được trồng để làm đẹp cảnh quan, trong mỗi khuôn viên sân trường, bên dòng sông hay những góc công viên đều có bóng dáng của cây phượng. Vẻ đẹp kiêu kì vật rực rỡ của hoa phượng điểm tô cho đời đầy thu hút.

Gỗ của thân cây phượng được sử dụng để làm các đồ thủ công mỹ nghệ. Vỏ của cây phượng có nhiều tác dụng trong việc trị chướng bụng hay giảm huyết áp, trị sốt rét. Rễ cây cũng có tác dụng trong hạ sốt cho người bệnh.

Bên cạnh ưu điểm, loài cây này cũng tồn tại một vài hạn chế. Tuổi thọ của cây không cao, chỉ rơi vào khoảng độ 30- 50 năm tuổi. Gỗ lấy từ thân cây không có chất lượng quá tốt. Cây sinh trưởng với bộ rễ lớn nên ngăn cản nhiều đến sư phát triển của những loài thực vật mọc dưới. Tuy nhiên, ta không thể phủ nhận được giá trị và ý nghĩa mà nó mang lại.

Phượng vĩ chính là biểu tượng của tuổi học sinh hồn nhiên, thơ ngây bên mái trường. Viết về lứa tuổi ấy cũng có bao lời ca, tiếng ca dành cho cánh phượng đầy nâng niu và trân quý:

Thuyết minh về cây phượng – Mẫu 2

Ở góc sân trường em có một cây phượng vĩ già, chắc đã vài chục tuổi. Người ta đặt tên cho nó là phượng vĩ có lẽ dựa vào hình dáng của lá giống như chiếc đuôi của con chim phượng hoàng trong cổ tích.

Em nghe các thầy cô nói tại rằng, cây phượng này do một phụ huynh trồng từ lúc ngôi trường mới xây xong. Cây cao tới lan can lầu một, cành xòe rộng, lá sum suê tỏa bóng mát rượi. Gốc cây to bằng một vòng tay người lớn, màu nâu, xù xì nhiều mấu. Những chiếc rễ nổi ngoằn ngoèo trên mặt đất. Lá phượng là loại lá kép, gồm nhiều lá nhỏ, mỏng, màu xanh sẫm, mọc song song hai bên cuống. Tuốt hết lá đi rồi buộc túm lại với nhau, em đã có trong tay một cây vợt bắt bướm xỉnh xinh. Mỗi sớm mai, trong tán lá xanh, tiếng chim hót ríu rít nghe thật vui tai.

Hằng năm, khi tiếng ve bắt đầu cất lên ra rả cũng là mùa hoa phượng nở. Màu đỏ nồng nàn như lửa bao phủ khắp ngọn cây, nhìn xa giống như một mâm xôi gấc khổng lồ. Lúc ấy, trông cây phượng già trẻ hẳn lại, bừng bừng sức sống. Nhìn hoa phượng nở, những cô cậu học trò náo nức nghĩ tới một mùa hè đầy ắp niềm vui.

Hoa phượng năm cánh, bốn cánh đỏ mỏng như lụa và một cánh dày lốm đốm trắng. Giữa hoa là chùm nhụy dài và cong, đầu nhụy là túi phấn hình bầu dục. Chúng em rất thích chơi trò chọi gà bằng những chiếc nhụy hoa đó.

Hết mùa, hoa phượng tàn dần. Mỗi lần có cơn gió thổi qua, những cánh phượng lả tả bay theo chiều gió. Trái phượng non màu xanh nhạt, mỏng và dài, khe khẽ đung đưa trên cành. Cây phượng già trở lại vẻ đẹp mộc mạc, thân quen của nó.

Chúng em gọi hoa phượng bằng cái tên thân yêu “hoa học trò” và coi cây phượng như người bạn thân thiết. Gốc cây là nơi tụ họp quen thuộc của chúng em để vui chơi và học tập. Hoa phượng nở cùng với tiếng ve ngân ran ran trong vòm lá báo hiệu năm học kết thúc, một mùa hè lại đến. Lòng chúng em rộn lên bao cảm xúc khi nghĩ về những điều thú vị đang chờ phía trước.

Đầu năm học mới, cây phượng lại xòe bóng mát, che chở cho những cô bé, cậu bé học sinh cổ quàng khăn đỏ, vui chơi dưới sân trường.

Thuyết minh về cây phượng – Mẫu 3

Là học sinh, chắc hẳn chúng ta chẳng còn xa lạ gì với cây phượng. Loài cây gần gũi ở một góc sân trường không chỉ cho bóng mát mà còn gắn liền với biết bao kỉ niệm tuổi học trò, trở thành người bạn gần gũi của biết bao thế hệ học sinh.

Phượng có nguồn gốc từ những cánh rừng ở Madagascar. Tại Việt Nam, phượng vĩ được người Pháp du nhập vào trồng khoảng những năm cuối thế kỷ 19 tại các thành phố lớn như Hải Phòng, Đà Nẵng, Sài Gòn.Phượng là loài cây thân gỗ. Thân phượng cao từ 6-12 m, chiều ngang phải hai người ôm mới xuể. Vỏ cây màu nâu, xù xì, những cây phượng già ở thân còn có những vết nổi lên như những cục u.

Lá cây là loại lá kép, màu xanh cốm, mỏng và nhỏ như lá me, mọc đối xứng nhau. Tán cây cao và rộng, trông xa như chiếc ô khổng lồ, từ cành chính mọc ra vô vàn những cành nhỏ hơn. Mùa hè, bóng cây râm mát che rợp một góc sân trường, mùa đông cây trút hết lá, cành cây trơ trụi, khẳng khiu. Rễ phượng thuộc loại rễ cọc, cắm sâu xuống lòng đất để hút chất dinh dưỡng, một vài rễ to trồi cả lên mặt đất, trông như những con giun bò ngoằn ngoèo.

Hoa phượng có 4 cánh tỏa rộng màu đỏ tươi hay đỏ cam, cánh thứ 5 mọc thẳng, lớn hơn những cánh kia một chút và lốm đốm trắng. Hoa phượng mọc thành từng chùm, một bông phượng có đến vô vàn những bông hoa. Hoa phượng mọc xen kẽ nhau tạo nên một ngọn lửa đỏ rực như muốn thiêu đốt cả cây, làm bừng sáng cả một khoảng trời rực rỡ. Mùa hoa hết, ta lại thấy những quả phượng dài và cong như lưỡi liềm.

Quả phượng khi non có màu xanh, già chuyển sang màu đen và có nhiều hạt.Phượng chiếm một vị trí đặc biệt trong cuộc sống của con người. Phượng thường được trồng ở những nơi công cộng như công viên, trường học để cho bóng mát. Tán phượng xanh mát vừa là chỗ cho chim muông làm tổ, vừa là nơi lí thú để học sinh nghỉ ngơi, hòa mình vào những trò chơi tinh nghịch.

Cây phượng cao lớn với những chùm hoa đỏ rực như lửa cháy cũng góp phần tô điểm cho phố phường, trường học. Loài hoa ấy đã trở thành biểu tượng cho thành phố Hải Phòng, được mệnh danh là thành phố hoa phượng đỏ. Thân cây dùng để lấy gỗ, tạo nên đồ nội thất trong gia đình. Rễ cây còn có công dụng ít ai ngờ tới là dùng làm thuốc.

Hoa phượng còn được ưu ái gọi với cái tên là hoa học trò. Có lẽ vì phượng thường nở vào mùa hè, là lúc những kì thi sắp tới và người học sinh phải tạm chia xa mái trường thân yêu. Nhìn những bông phượng kiêu hãnh khoe sắc đỏ trên nền là đám lá xanh mướt, lòng người học sinh không khỏi có những xúc động, xốn xang. Một chút lo lắng vì kì thi sắp đến. Một chút khẽ vui vì mùa hè về, kì nghỉ hè cũng đến. Một chút lưu luyến, bâng khuâng vì sắp phải tạm biệt thầy cô, bạn bè, cả cây phượng thân quen là nơi tụ tập bạn bè mỗi giờ ra chơi.

Đối với người học sinh cuối cấp, những cánh phượng ép khô trên trang vở chứa đựng biết bao tình cảm, là những hồn nhiên, ngây thơ, trong sáng nhất của những ngày cắp sách đến trường. Chừng nào phượng còn hiện diện ở sân trường, thì phượng vẫn sẽ mãi là người bạn thân thiết của người học trò, chứng kiến những vui buồn, hờn giận, yêu ghét của tuổi mới lớn.

Và như một người bảo vệ già thầm lặng, phượng đứng đó, dang cánh tay rộng lớn như muốn bảo vệ cho cả ngôi trường, để lũ học sinh yên tâm vui đùa dưới tán cây râm mát:

(Phượng mười năm-Xuân Diệu)

Sắc đỏ của phượng cũng từng nhiều lần đi vào thơ ca nhạc họa, ta có thể kể đến Nhà thơ Thanh Tùng có bài thơ “Thời hoa đỏ” đã được nhạc sĩ Nguyễn Đình Bảng phổ nhạc thành bài hát cùng tên, viết về những kỷ niệm của tuổi trẻ với mùa hoa phượng vĩ, tản văn “Hoa học trò” của Xuân Diệu.

Phượng dễ trồng và dễ sống. Cây tái sinh từ hạt và chồi đều mạnh, có thể phát triển trên mọi địa hình: ven biển, miền núi, trung du, đồng bằng… Cây phát triển nhanh, không kén đất, ưa sáng, rất dễ trồng. Tuy nhiên, cây có tuổi thọ không cao lắm, chỉ 30 tuổi đã già cỗi, thân mục rỗng, bị sâu bệnh tấn công. Những cây trồng trong trường học hoặc công viên có tuổi thọ cao hơn nhưng cũng chỉ tầm 40-50 tuổi.

Tình cảm của con người đối với cây phượng dù có dùng ngôn từ nào cũng không thể diễn tả hết. Phượng nở không chỉ là một mùa hoa, phượng nở gọi về bao kí ức tươi đẹp, gọi một thời ngây thơ, trong sáng và làm sống dậy cái phần ngủ quên bấy lâu trong tâm hồn mỗi người.

Thuyết minh về cây phượng – Mẫu 4

Mùa hè về lại một mùa râm ran tiếng ve. Nắng càng vàng, cây càng xanh, hoa càng thắm sắc. Được mệnh danh là “hoa học trò”, một mùa phượng vĩ lại đến. Những cây phượng nở hoa đỏ rực một vùng trời.

Phượng có tên khoa học là Delonix regia, thuộc họ Caesalpiniaceae. Cây có nguồn gốc từ Madagascar. Là cây có hoa rực rỡ và tạo bóng mát nên được trồng rộng rãi ở các nước nhiệt đới ẩm. Ở Việt Nam, cây được trồng quen thuộc ở các thành phố lớn và đặc biệt được trồng nhiều ở trường học và các công trình. Phượng phân bố rộng rãi ở các nước nhiệt đới ẩm, đặc biệt mọc tốt ở những nơi có lượng mưa từ 1.00 đến 2.00 mm/năm.

Vì điều kiện phù hợp nên khu vực Caribe trồng rất nhiều phượng vĩ.Phượng có chiều cao trung bình từ 2m trở lên. Có nhiều cây cổ thụ cao hơn cả nóc nhà. Khác với cây bàng, thân phượng không to và sần sùi. Thân cây chỉ cần một vòng tay ôm cũng bao trọn. Vỏ cây màu nâu ngả sang màu xanh rêu, không có những u bướu như cây bàng. Rễ cây lớn nổi gồ ghề trên mặt đất, đâm sâu xuống lòng đất hút nước và các chất dinh dưỡng để nuôi cây.

Phượng là loại cây lá kép gồm nhiều lá nhỏ, mỏng, màu xanh sẫm. Lá mọc song song ở hai bên cuống, trông xa như đuôi chim phượng. Có lẽ vì đặc điểm mà cây có tên là phượng vĩ chăng? Lá phượng không giống lá bàng to bằng bàn tay có thể che nắng che mưa. Lá phượng mỏng, từng lá một nhỏ bé rợp vào nhau không khít bởi thế ánh nắng có thể xuyên qua in thành từng đốm nắng trên mặt đất.

Mùa hè, khi tiếng ve bắt đầu râm ran, cũng là lúc hoa phượng nở. Nhắc đến phượng người ta sẽ nghĩ đến hoa phượng bởi màu sắc đặc trưng của nó. Một màu đỏ rực rỡ như lửa. Hoa phượng không mọc đơn mà mọc thành từng chùm lớn. Từng chùm lại đan vào nhau khiến cho cây phượng mỗi mùa ra hoa nhìn xa như mâm xôi gấc khổng lồ.

Hoa phượng có năm cánh, bốn cánh màu đỏ tươi và một cánh màu đỏ đốm trắng. Nhụy hoa phượng thường được lấy để chơi chọi gà. Nhụy hoa có hình bầu dục, dài và cong. Cánh hoa phượng khô thì được lũ học trò lấy về ép vào trong trang vở lưu bút. Phượng nở hoa vào tháng năm tháng bảy hàng năm. Hết mùa phượng nở, tháng tám, tháng mười sẽ có quả phượng.

Quả phượng non có màu xanh, mỏng dài khẽ đung đưa trong gió. Khi chín quả phượng có màu nâu đen, hình quả đậu dài dẹt. Cứ thế một vòng tuần hoàn sinh trưởng của phượng nối tiếp nhau. Cây phượng được trồng rất nhiều trên hè phố vì nó dễ trồng. Cây phượng có khả năng chịu hạn rất tốt và sinh trưởng đơn giản. Con người không cần quá chú tâm vào chăm sóc tưới nước thường xuyên mà cây vẫn có thể sống rất tốt. Đây là một trong những lý do cây phượng được trồng rất nhiều trên vỉa hè, các công ty, trường học có khuôn viên rộng.

Cây phượng vào mùa hè lá xanh tỏa bóng rất mát. Màu xanh của lá phượng nhìn vào cho ta một cảm giác tươi mát lạ thường. Cây phượng gắn liền với thế hệ tuổi học trò. Khi phượng bắt đầu nở báo hiệu cho một mùa chia tay đang đến. Những lưu luyến vấn vương in sâu trong từng cánh phượng. Những bức ảnh kỉ yếu với những vòng hoa phượng đội đầu hay những chùm phượng cầm tay ghi lại khoảnh khắc tươi đẹp nhất tuổi học trò ngây ngô hồn nhiên.

Cây phượng như một minh chứng cho quãng thời gian tươi đẹp nhất của cuộc đời đi học. Không chỉ vậy, hoa phượng còn đi vào trong thơ ca, trở thành những hình ảnh quen thuộc của các thi sĩ

(Tiều phu)

Hay:

(Luân Hoán)

Phượng cứ thân thương được gọi bằng cái tên thân mật: “Hoa học trò” như để khẳng định vị trí quan trọng của nó với lứa tuổi đẹp nhất đời người – tuổi học sinh. Vì vậy, cây phượng với mọi người sẽ mãi được nâng niu và trân trọng.

Thuyết minh về cây phượng – Mẫu 5

Nếu hoa đào, hoa mai tượng trưng cho mùa xuân ấm áp thì hoa phượng lại tượng trưng cho một mùa hè sôi động. Điều đặc biệt hơn cả là loài hoa này gắn liền với tuổi học sinh, với những ngày cắp sách đến trường của các cô cậu học trò. Đây là loài hoa gợi nhắc về những kỉ niệm thuở hồn nhiên, ngây dại trong mỗi chúng ta.

Cây phượng có nguồn gốc từ đất nước Madagascar. Tên khoa học của loài hoa này là Delonix regia. Ngoài ra, người ta còn gọi nó với các tên khác nhau như phượng vĩ, điệp tây hay xoan tây. Nó được trồng nhiều ở các vùng cận nhiệt và nhiệt đới, những nơi có khí hậu nóng ẩm.

Phượng thuộc loại cây thân gỗ, có lớp vỏ màu nâu, khá xù xì và sần sùi. Thân cây cao từ 10 – 15m nhưng cũng có cây cao tới 20 m. Chiều cao của nó có thể được tính bằng chiều cao của những ngôi nhà hai tầng. Phượng có rất nhiều cành lá tỏa ra xung quanh để tạo bóng mát.

Bộ rễ cọc khiến cây bám sâu vào mặt đất hút lấy các chất dinh dưỡng để cung cấp cho cây sinh trưởng và phát triển tốt. Nhưng nó không chịu nằm yên dưới lòng đất mà nổi lên trên mặt đất với hình dáng ngoằn ngoèo. Điều quan trọng nhất là bộ rễ này khiến cây trở nên vững chãi hơn trước mưa gió, bão bùng hay sự thay đổi của thời tiết.

Lá phượng là lá kép, có kích thước nhỏ. Chúng mọc đối xứng với nhau qua xương lá. Nổi bật lên giữa những tán lá xanh xum xuê là màu đỏ rực rỡ của hoa phượng. Hoa phượng có năm cánh mỏng, cánh phượng thứ năm thường có cấu tạo dày hơn bốn cánh còn lại. Nó mọc thẳng và trên cánh điểm xuyết những đốm trắng hoặc vàng trông rất thu hút. Ở chính giữa bông hoa là nhụy hoa hình bầu dục, góp phần tạo điểm nhấn cho toàn bộ bông hoa.

Hoa phượng không mọc từng bông đơn lẻ mà mọc thành từng chùm. Những chùm phượng đỏ tươi lấp ló sau kẽ lá khi mới vào mùa hạ đã tạo nên một bức tranh hài hòa về màu sắc. Nhưng đến tháng 6, tháng hoa phượng nở rộ nhất thì cả bầu trời dường như ngập tràn trong sắc đỏ.

Từng chùm phượng rung rinh trong lá hay tỏa sắc giữa ánh nắng mặt trời đều là những bức tranh tuyệt đẹp in đậm dấu ấn trong trí nhớ mỗi con người. Quả phượng có màu nâu đen, dài khoảng 20 đến 60 cm, bên trong có nhiều hạt và quả phượng khô được sử dụng làm dụng cụ trong âm nhạc.

Cây phượng có rất nhiều công dụng. Tán phượng rộng nên tỏa ra làm bóng mát cho con người, đặc biệt là cho các bạn học sinh vì ở nước ta phượng được trồng nhiều trong các trường học và trên hè phố. Những giờ ra chơi, các cô cậu học trò thường rủ nhau chơi những trò chơi dưới tán phượng như trò ô ăn quan, nhảy dây. Đây cũng là địa điểm lí tưởng cho các bạn ôn bài hay là nơi tâm sự, chia sẻ những câu chuyện về học tập, cuộc sống.

Phượng còn có tác dụng làm tăng thêm vẻ đẹp của không gian khi chúng được trồng ở trên những con đường, trên hè phố. Sắc đỏ của phượng xen kẽ với sắc tím của bằng lăng khiến ai đi qua cũng muốn dừng lại ngắm nhìn. Không chỉ thế, hoa phượng còn ghi dấu biết bao kỉ niệm của tuổi học trò. Ai đó đã tặng ta chùm phượng thay cho lời thương không dám nói. Các cô cậu học sinh thường lấy những cánh phượng, xếp thành hình con bướm ép trong cuốn lưu bút giữ làm kỉ niệm.

Ngoài ra, phượng còn được trồng để lấy gỗ dùng cho việc sản xuất các đồ gỗ dân dụng phục vụ đời sống con người. Vỏ cây, rễ cây dùng trị bệnh sốt rét và hạ nhiệt. Ở nhiều nơi, người ta trồng phượng để chống xói mòn đất bởi cây có rễ ăn sâu vào lòng đất và có tán lá rộng rất thích hợp cho việc chắn gió. Nhắc đến hoa phượng là nhắc đến mùa của thi cử, mùa của chia ly nên người ta còn gọi nó bằng cái tên vô cùng gần gũi, đó là hoa học trò. Chắc hẳn tuổi học trò của mỗi người không thể không có bóng dáng của cây phượng.

Cây phượng đã trở thành một nguồn cảm hứng dào dạt cho lĩnh vực nghệ thuật. Chúng ta có thể nhắc đến các bài hát nổi tiếng như “Phượng buồn”, “Phượng hồng”, “Nỗi buồn hoa phượng”, hay trong những vần thơ của Quốc Phương, Bùi Đức An,…

(Phượng hồng – Quốc Phương)

Phượng được xem là loài cây có sức sống mãnh liệt khi vượt lên trên sự oi bức, nắng gắt của mùa hạ để nở ra những bông hoa mang vẻ đẹp rực rỡ. Có thể nói cây phượng giữ một vai trò to lớn trong cuộc sống của con người. Người ta không chỉ yêu thích nó bởi vẻ đẹp mà còn bởi những công dụng nó mang lại cho đời sống.

Thuyết minh về cây phượng – Mẫu 6

Mùa hạ về, những cánh phượng hồng đỏ rực cả một góc trời, cũng là lúc báo hiệu mùa thi, mùa chia tay sắp đến. Biết bao thế hệ học trò đã đi qua, cây phượng vẫn sừng sững trước sân trường, che nắng mưa, lưu dấu kỉ niệm buồn vui của một thời “nhất quỷ nhì ma”.

Phượng vĩ có thật nhiều tên, từ tên khoa học Delonix regia, thuộc gia đình Caesalpiniaceae Họ poinciana có cùng một họ với đậu Leguminosae, giống Delonix. Nguyên giống phát xuất từ Madagascar, phượng vĩ đã được đi du lịch đến khắp mọi miền nhiệt đới trên thế giới, nhất là đông nam Á và châu mỹ Latinh.

Cũng vì vậy, phượng vĩ đã có thật nhiều tên gọi thông thường theo từng ngôn ngữ. Có lẽ vì màu sắc rực rỡ đỏ rực nổi bật trên nền trời, nên phượng vĩ được so sánh như những ngọn lửa giữa rừng, nó được thổ dân vùng Madagascar cho vào hạng hoàng tộc của thảo mộc. Nó còn là loài cây biểu tượng của quần đảo Bắc Mariana.

Cây phượng thuộc vào loại thân mộc, cao khoảng 6 – 12 mét, cành dài khoảng 20 – 40cm, dày đặc những lá kép nhỏ li ti. Phượng vĩ nở rất lâu, kéo dài từ tháng năm, tháng sáu cho đến tháng chín. Hoa phượng đỏ thẫm, đường kính khoảng 6 – 10cm mỗi hoa, 5 cánh hoa xòe rộng với những đốm bầm li ti trên cánh, và một trong năm cánh hoa màu vàng cam, hơi quăn góc, và thô hơn những cánh còn lại.

Bên trong nhụy hoa là tập hợp của mười nhánh, dài khoảng 10cm, với phấn hoa thu hút ong bướm. Sau khi hoa tàn, từ đài hoa mọc ra trái phượng, dẹp và dài khoảng 60cm, khi chín đen thẫm và vỏ cứng, có hạt màu nâu thẫm bên trong.

Cây phượng phát triển tốt trên mọi loại địa hình: ven biển, đồi núi, trung du. Cây thuộc loại ưa sáng, mọc khỏe, phát triển nhanh, không kén đất, rất dễ gây trồng. Tuy nhiên, nhược điểm lớn là tuổi thọ không cao: cây trồng trên đường phố chỉ 30 tuổi là đã già cỗi, thân có dấu hiệu mục rỗng. Sâu bệnh, nấm bắt đầu tấn công, cây trồng trong công viên, trường học có thể có tuổi thọ cao hơn nhưng cũng chỉ đạt 40 – 50 năm tuổi.

Gỗ phượng thuộc loại trung bình, dùng trong xây dựng, đồ gỗ dân dụng, đóng hòm, xẻ ván. Cây cho vỏ và rễ làm thuốc hạ nhiệt, chống sốt. Vỏ cây có thể sắc nước uống trị sốt rét, đầy bụng, tê thấp, giảm huyết áp. Lá trị tê thấp và đầy hơi. Trái phượng vĩ được sử dụng tại khu vực Caribe trong vai trò của bộ gõ âm nhạc với tên gọi: shak-shak hay maraca. Ngoài ra có thể được dùng làm củi đốt. Ở những miền quê Việt nam, đôi lúc hạt phượng được đem rang trong cát để ăn vì có nhiều dầu, vị bùi bùi thơm thơm.

Trong ngành tinh chế hóa chất, hương và dầu thơm, hoa của phượng vĩ được dùng trong việc xoa bóp làm giảm căng thẳng cơ bắp. Hương phượng vĩ giúp chúng ta có thể tách rời khỏi những phiền toái, và những cuộc tranh cãi không cần thiết. Biết sử dụng hương hoa phượng, người ta có thể thoải mái hơn, cũng như cảm thấy nhẹ nhàng hơn. Bởi mùi hương hơi nồng, nhưng lại rất dễ dàng ăn sâu vào lòng người, cũng như sự chuyển vận và dễ dàng hòa nhập vào môi sinh.

Phượng vĩ được người ta tin tưởng có tác dụng làm cho con người bớt căng thẳng, dễ dàng kết bạn, dễ đi sâu vào lòng người. Nó giúp người ta giao thiệp dễ dàng và lịch sự, cũng như vượt qua được những bực bội, giận dữ, để tâm hồn thoải mái hơn.

Tại Việt Nam, phượng vĩ được người Pháp du nhập vào trồng khoảng những năm cuối thế kỷ 19 tại các thành phố lớn như Hải Phòng, Đà Nẵng, Sài Gòn. Hiện nay phượng vĩ là loài cây được trồng rộng rãi từ Bắc vào Nam trên vỉa hè, công viên, trường học.

Vì cây có đặc điểm rụng lá vào mùa đông, xanh tươi vào mùa xuân, hè, thu, có tán lá sum sê, mở rộng tạo bóng mát và làm đẹp cảnh quan khi nở hoa. Thành phố Hải Phòng còn được gọi là thành phố Hoa phượng đỏ; nơi đây hoa phượng được trồng khắp nơi, có cả một công viên hoa phượng ngay trung tâm thành phố, có lễ hội hoa phượng diễn ra vào tháng 5 rất độc đáo.

Do mùa nở hoa của phượng trùng với thời điểm kết thúc năm học, mùa chia tay của học sinh nghỉ hè. Do đó, nó gắn liền với nhiều kỉ niệm buồn vui của tuổi học trò, và vì thế người ta gắn cho nó tên gọi “hoa học trò”. Vẻ đẹp rực rỡ, chói ngời của phượng vĩ đã làm say đắm biết bao nhiêu người, biết bao nhiêu câu chuyện, thơ văn, nhạc họa,… có hình bóng phượng vĩ đã ra đời, làm xao xuyến tâm hồn nhiều thế hệ.

Trong mỗi chúng ta, nếu đã trải qua thời áo trắng đến trường, ắt hẳn mỗi người đều mang trong mình một kỉ niệm đặc biệt, gắn liền với cây phượng thân yêu.

Thuyết minh về cây phượng – Mẫu 7

Hàng năm, đến khi những chú ve cất lên những tiếng hát gọi hè reo vang inh ỏi khắp sân trường. Tôi lại được nghe các cô cậu học trò nhắc đến tôi qua những câu đối rất đáng yêu và vô cùng ngộ nghĩnh:

Có lẽ là vậy sự xuất hiện chúng tôi có lẽ cũng đã gắn bó với ít nhiều với những kỉ niệm đẹp đẽ của các bạn học sinh. Mùa hạ thường đến với những mùa thi, cùng với những nhành phượng vĩ đỏ ối chúng tôi lấp ló để báo hiệu ngày chia tay mang đẫm những kỉ niệm vui buồn xen lẫn.

Đồng hành với màu đỏ rực của chúng tôi có lẽ chẳng có gì khác ngoài những hàng lưu bút, những dòng nhật kí theo năm tháng và là cả những món quà nho nhỏ lưu niệm dành tặng cho nhau của những cô cậu học trò nhí nhố.

Chúng tôi cũng dường như là nhân chứng cho những tình yêu lãng mạn mơ mộng vu vơ của thời học trò áo trắng cắp sách. Chúng tôi đặc biệt là thế đấy, luôn gắn liền với tuổi học trò. Và tôi không biết từ bao giờ, mọi người xem chúng tôi là một biểu hiện của mùa hạ, của một thời học trò.

Và cũng từ khi nào loài phượng vĩ chúng tôi còn có một biệt danh khác, một tên gọi khác: “Hoa học trò”? Loài phượng vĩ chúng tôi cũng có nhiều tên lắm đấy. Ngoài những cái tên độc đáo, đầy ấn tượng như là xoan tây, điệp tây, hoa nắng, chúng tôi còn có tên khoa học nữa cơ.

Tên khoa học của chúng tôi là Delonix regia, thuộc gia đình Caesalpiniaceae, Họ poinciana có cùng một họ với đậu (Leguminosae), giống Delonix. Loài chúng tôi đa số sinh sống và phát triển tốt ở vùng nhiệt đới hay cận nhiệt đới, nhưng vẫn có thể kiên cường chống chọi với điều kiện khô hạn và sống được cả những nơi đất mặn. Tôi nghe cha tôi kể lại rằng, tổ tiên của tôi có nguồn gốc từ Madagascar cơ đấy. Tại đó con người ta tìm thấy tổ tiên chúng tôi trong các cánh rừng ở miền tây Malagasy.

Thế là từ đó, dòng họ của tôi đã được tận hưởng một chuyến du lịch đến khắp mọi nhiệt đới trên thế giới, nhất là Đông Nam á và châu mỹ latinh. Có lẽ vì màu sắc rực rỡ đỏ rực nổI bật trên nền trời, nên chúng tôi được so sánh như những đốm lửa ấm nóng chói chang giữa rừng chăng?

Tôi chỉ được biết rằng, màu đỏ thắm của chính loài hoa chúng tôi đã được thổ dân vùng Madagascar cho vào hạng hoàng tộc của thảo mộc, cũng như được công nhận là hoa biểu tượng cho xứ Puerto Rico.

Tại Việt Nam, chúng tôi được người Pháp du nhập vào trồng vào những năm cuối thế kỷ 19 tại các thành phố lớn như: Hải Phòng, Đà Nẵng, Sài Gòn và dần được trồng rộng rải từ Bắc vào Nam trên vỉa hè,công viên, trường học. Chúng tôi thuộc vào loại thân mộc, có thể cao lên đến từ 5-12 mét với những tán lá xòe rộng và dày như một chiếc dù khổng lồ. Mỗi cành lá dài khoảng 20-40cm, dày đặc những chiếc lá kép li ti có màu lục hơi nhạt đặc trưng, nhỏ nhỏ xinh xinh như những chiếc lông chim.

Những bông hoa màu đỏ thẫm lượn theo những đường cong mềm mại, mỗi cánh có thể dài tới 8cm, 5 cánh hoa xòe rộng như những chiếc chong chóng sắp quay. Hoa có 4 cánh có màu đỏ thẫm rực rỡ với cánh thứ năm mọc thẳng, hơi quăn góc, lấm chấm những đốm đỏ đậm, lớn hơn một chút và có phần thô hơn 4 cánh kia.

Bên trong những chiếc cánh hoa ấy chính là bầu nhụy và có những cánh nhụy dài có phấn hoa màu vàng với hương thơm thoang thoảng, thư thái, an lành nhưng đượm đầy sự quyến rũ khiến các loài ong bướm mê mẩn.

Đến khi hoa tàn, từ những đài hoa nhỏ nhắn đấy lại mọc ra những trái phượng đẹp, dài đến 60cm và rộng chừng 5cm, khi chín có màu đen thẫm và vỏ cứng bao bọc những hạt phượng màu nâu thẫm bên trong.

Chính nhờ có được những phẩm chất ngoại hình trời phú như vậy nên loài phượng vĩ tôi đây vô cùng tự hào vì còn được ví von như là loài cây nhiều màu sắc nhất trên thế giới. Những bông hoa đỏ rực rỡ sáng chói trong nắng cùng với nhị vàng hòa lẫn với những màu xanh lục của lá cây làm loài phượng chúng tôi lộng lẫy một cách giản dị vô cùng mà không thể nhầm với loài nào khác cả.

Đối với các cô cậu học trò, loài phượng chúng tôi cũng đặc biệt lắm chứ. Chúng tôi ghi lại dấu mốc quan trọng của mỗi cô cậu học chúng tôi chúng tôi bắt đầu chớm nở là thời điểm của mùa thi cuối năm, dù các bạn có thành công hay thất bại thì điều đó vẫn đem lại cho các bạn những bài học vô cùng quý giá khiến các bạn trưởng thành hơn.

Những bông hoa của tôi còn được các bạn hái để ép thành những con bướm vào những trang nhật kí, trang sách; nhị của bông hoa các bạn hái để chơi những trò chơi ngộ nghĩnh như “đá gà”; tán lá giúp che nắng, che mưa cho các cô cậu học trò vào những ngày hè oi bức hay những ngày mưa tầm tã; thân cây chúng tôi để các bạn khắc lên những dấu ấn kỉ niệm thân thương theo năm tháng; quả của chúng còn được một số bạn nam tinh nghịch hái để chơi đánh kiếm.

Và khi chúng tôi đã nở rộ thì có lẽ cũng đã đến thời điểm các bạn phải xa lìa nhau. Ôi, mới nghĩ đến thôi tôi cũng đã cảm thấy nao lòng rồi. Năm nào cũng vậy, tuy đã quen nhưng tôi vẫn không thể nào tránh được cảm giác xao xuyến khi thấy các bạn chia tay.

Các bạn cùng tặng nhau những món quà lưu niệm nho nhỏ, trao cho nhau những lời chúc tốt đẹp và những lời chia tay thấm đẫm những nỗi buồn của các cô cậu học sinh, như không muốn xa lìa.

Tuy vậy, đến đầu tháng năm, thời kì chúng tôi ra hoa đẹp nhất, tôi lại được chứng kiến các cô cậu học trò gác qua những nỗi buồn và lục đục cho những ngày hè sôi động đang đón chờ khiến tôi cũng phấn khởi theo.

Ngoài ra, trong đời sống con người sao có thể thiếu tôi được chứ: quả khô dùng để làm củi này, gỗ được dùng trong xây dựng, đồ gỗ dân dụng, vỏ và rễ còn dùng để làm thuốc để chữa một số bệnh, và còn vô vàn những lợi ích khác.

Ở Việt Nam, vào những dịp hè về, nếu có dịp ghé qua Hải Phòng, các bạn sẽ thấy một thành phố mang mác đầy những sắc đỏ của hơn 9000 những người anh em tôi được gieo rải khắp thành phố. Hay mỗi năm vào tháng sáu, miền nam Florida thường tổ chức hội hoa Phượng Vỹ để mọi người cùng thưởng hoa, như người Nhật thường có hội hoa Sakura chăng?

Vì cái đẹp của phượng vỹ, và vì sự bền bỉ của cây phượng qua bao nhiêu năm tháng, dù trụi cành giữa mùa đông nhưng xanh tươi trong những tháng ngày còn lại trong năm, và vì tán lá xanh um mở rộng như chiếc dù che nắng mưa, phượng vỹ có lẽ vì thế được ưa chuộng trong những khuôn viên học đường, những công viên, dọc theo hai bên đường phố hầu tạo được bóng mát trên đường, và làm cảnh đẹp mỗi mùa phượng nở.

Có lẽ chúng tôi sẽ mãi là biểu tượng cho tuổi học trò. Dưới các mái trường thân yêu, không phải ai hết mà chính là chúng tôi cũng đã lần lượt chứng kiến lũ học trò đang dần trưởng thành và rời xa những mái trường. Chúng tôi khắc ghi lại bao nhiêu dấu ấn kỉ niệm buồn vui học trò, từ những ngày tháng vui đùa bên nhau cho đến khi xa lìa.

Cũng hạnh phúc lắm chứ. Có lẽ vì thế mà biết bao người, từ châu Âu đến châu Á, đã viết biết bao nhiêu mẩu chuyện, làm biết bao nhiêu bài thơ, bao nhiêu bức tranh, và nhất là phối âm bao nhiêu bản nhạc riêng cho chúng tôi, ví dụ như bản “Poinciana”, và có phải vì thế, bao tâm hồn thi sĩ bắt đầu biết nhớ, và biết mong “Sớm Nở Phượng Yêu”.

Thuyết minh về cây phượng – Mẫu 8

Ở Việt Nam cây phượng vĩ được trồng ở rất nhiều nơi nhưng được trồng nhiều nhất có lẽ là ở trong sân trường. Hầu như trường học nào cũng trồng cây phượng bởi vì phượng tỏa bóng mát giúp cho học sinh có thể vui chơi bên dưới thoải mái.

Những cây phượng vĩ có tên gọi khoa học là Delonix regia, thuộc gia đình Caesalpiniaceae họ poincianas có cùng một họ với đậu, giống Delonix. Nếu để ý quả cây phượng bạn sẽ thấy nó như một quả đậu khổng lồ. Cây phượng vĩ được trồng rất nhiều ở vùng nhiệt đới. Hoa phượng có màu đỏ thắm, cũng có loại có màu vàng và được xếp vào hạng hoàng tộc của thảo mộc đối với người dân ở vùng Madagascar.

Phượng vĩ là loại cây thuộc giống thân gỗ. Mỗi cây cao khoảng 6-12 mét với tán lá xòe rộng như chiếc dù lớn. Cành cây dài khoảng 20-40cm và có những cái lá kép nhỏ li ti. Những bông hoa khi nở có màu đỏ thắm với đường kính khoảng 6-10c. Hoa phượng có hương thơm dịu nhẹ nhưng đủ sức để thu hút lũ ong bướm đến hút phấn hoa.

Suốt 3 tháng hè hoa phượng nở đỏ rực. Đến khi hoa phượng tàn, từ đài hoa mọc ra trái phượng, đẹp và dài khoảng 60cm. Ban đầu quả phượng có màu xanh nhưng khi chúng chín già chúng có màu đen thẫm và vỏ cứng. Ở bên trong quả phượng có những hạt phượng màu nâu thẫm. Nếu như rang lên, hạt phượng có thể ăn được hoặc nếu không có thể sử dụng để làm củi đốt.

Từ phượng vĩ, người ta có thể tinh chế hương và dầu thơm để dùng làm chất xoa bóp giúp làm giảm căng thẳng cơ bắp. Xoa bóp với tinh dầu phượng vĩ có thể giúp con người có được một cảm giác thoải mái. Nhờ có sắc đỏ đặc trưng cùng với tán cây rực rỡ, hào nhoáng nên mỗi khi hoa phượng nở rộ chúng lại khiến lòng người xao xuyến.

Loài hoa này vì vậy xứng đáng được liệt kê vào hạng hoàng tộc trong tất cả các loại cây cảnh. Phượng vĩ một năm chỉ nở duy nhất 1 lần nhưng có lẽ cũng chính vì vậy mà chúng rất lâu tàn. Từ khi bắt đầu nở cho đến khi tàn, phượng vĩ vẫn giữ nguyên sắc đỏ của mình. Chúng có khả năng chịu bão rất tốt. Sau những cơn mưa lớn, những trận bão to, chúng ta vẫn thấy những bông hoa rực rỡ khoe sắc và dường như chúng còn đẹp hơn cả lúc trước.

Cây hoa phượng vĩ có một sức sống rất dẻo dai và bền bỉ. Ngay cả khi bị trụi cành vào giữa mùa đông nhưng sang đến mùa xuân và những mùa sau đó chúng vẫn xanh tươi. Tán lá của chúng thì mỗi ngày lại càng vươn ra xanh um. Chúng xòe rộng như những chiếc ô che mưa, che nắng. Cũng chính nhờ công dụng cho bóng râm mà cây phượng vĩ được trồng nhiều trong trường học.

Trên thế giới, có biết bao nhiêu nhà văn, nhà thơ đã sáng tác nên những câu chuyện ngay, những bài thơ đặc sắc về cây phượng vĩ. Hay những bức họa, những bản nhạc,… Tất cả đã đọng lại trong lòng người hình ảnh về những cây hoa phượng lung linh. Cũng nhờ vậy mà cây phượng vĩ trở nên quen thuộc, gần gũi và thân thiết hơn với con người, đặc biệt là với học sinh. Cây hoa phượng vĩ cũng vì vậy mà được gọi là cây hoa học trò.

Con người lớn lên và trưởng thành từng ngày nhưng cây phượng vĩ thì vẫn ở đó, che mưa che nắng cho biết bao nhiêu thế hệ học trò. Bông hoa học trò đã mang đến cho đời những hương sắc tươi đẹp và là nơi lưu giữ kỉ niệm vui buồn của những cô cậu học sinh.

Thuyết minh về cây phượng – Mẫu 9

Phượng vĩ được trồng ở nhiều nơi nhưng chủ yếu nhất vẫn là ở sân của các trường học. Hầu hết các trường học đều có phương vị bởi nó sẽ gắn liền với kỉ niệm của tuổi học trò.

Mùa hạ đến những cánh phượng đỏ rực cả một góc trời, cũng là lúc nó báo hiệu ngày chia tay sắp đến. Phượng Vỹ được gọi với tên khoa học Delonix regia, thuộc gia đình Caesalpiniaceae Họ poinciana có cùng một họ với đậu (Leguminosae), giống Delonix. Phượng vĩ được trồng ở các vùng nhiệt đới của khắp thế giới. Màu đỏ thắm của phượng vỹ đã được cho vào hạng hoàng tộc của thảo mộc đối với người dân ở vùng Madagascar.

Cây phượng vỹ thuộc loại thân gỗ cao khoảng 6-12 mét, với tán lá xòe rộng như chiếc dù lớn, với những cành dài khoảng 20-40cm, dày đặc những lá kép nhỏ li ti. Khi hoa nở cánh hoa đỏ thẫm, đường kính khoảng 6-10cm mỗi hoa, với năm cánh hoa xòe rộng.

Bên trong nhụy hoa có mười nhánh, dài khoảng 10cm, với phấn hoa thu hút ong bướm. Khi hết thời kì của hoa, từ đài hoa mọc ra trái phượng, đẹp và dài khoảng 2 feet, khi chín đen thẫm và vỏ cứng, với hạt phượng màu nâu thẫm bên trong. Hạt phượng có thể rang lên để ăn hoặc làm củi đốt.

Người ta có thể tinh chế hương và dầu thơm(essence) của phượng vỹ để dùng làm chất xoa bóp (massage) làm giảm căng thẳng cơ bắp, đem lại cho con người cảm giác thoải mái. Với màu đỏ đặc trưng, với tán cây rực rỡ, hào nhoáng mỗi khi hoa nở rộ, loại cây duyên dáng này xứng đáng để được liệt kê vào hạng hoàng tộc trong tất cả các loại cây cảnh.

Hoa phượng vỹ rất lâu tàn, chúng giữ nguyên sắc đỏ từ đầu mùa hạ cho đến đầu thu. Phượng vĩ có khả năng chịu bão rất tốt, sau mỗi cơn bão chúng vẫn đứng sừng sững giữa đất trời.

Cây phượng có một sức sống rất dẻo dai và bền bỉ, dù trụi cành giữa mùa đông nhưng xanh tươi trong những tháng ngày còn lại trong năm, và vì tán lá xanh um mở rộng như chiếc dù che nắng mưa, nên phượng được trồng nhiều ở các trường học.

Có rất nhiều các nhà văn nhà thơ trên thế giới đã viết biết bao nhiêu câu truyện, làm biết bao nhiêu bài thơ, bức tranh, và nhất là phối âm bao nhiêu bản nhạc riêng cho phượng vỹ, điều đó càng làm cho phượng vĩ thêm gần gũi, thân thiết với tuổi học trò.

Dù năm tháng đã qua đi, nhưng cây phượng vĩ vẫn nằm nguyên đó, che nắng mưa cho học trò và tạo nên những sắc hoa làm đẹp cho đời. Chia sẻ niềm vui cũng như nỗi buồn của biết bao thế hệ học trò.

Thuyết minh về cây phượng – Mẫu 10

Trong chúng ta có lẽ ai cũng có những mùa hè rực cháy trong cuộc đời. Và lấp ló sau những kí ức tuổi thơ đấy chính là bóng dáng thấp thoáng của cây phượng nơi sân trường.

Nhắc đến mùa hè cũng là nhắc đến hình ảnh đỏ rực một góc nơi sân trường, phượng vĩ! Loài cây này không chỉ là một loài cây mang lại bóng mát mà nó còn là biểu tượng của sân trường, biểu tượng của thời áo trắng với biết bao bạn học sinh. Loài cây biểu tượng này có nguồn gốc bắt nguồn từ cánh rừng ở Madagascar.

Không chỉ tới đất nước Việt Nam nhỏ bé mà phượng vĩ đã được mang tới khắp các vùng đất nhiệt đới trên thế giới. Trong đó khu vực được phượng du lịch nhiều nhất chính là châu Mỹ Latinh và Đông Nam Á. Tên khoa học của phượng vĩ là Delonix regia. Nó thuộc gia đình Caesalpiniaceae, họ poinciana.

Cây phượng có họ với đậu Leguminosae. Vào những năm cuối thế kỉ 19, phượng vĩ được người Pháp du nhập vào Việt Nam tại những thành phố lớn như Đà Nẵng, Sài Gòn, Hải Phòng. Thành phố Hải Phòng hay còn gọi là thành phố hoa phượng đỏ. Trong thành phố còn có cả một công viên hoa phượng sặc sỡ.

Đây là một loài cây thân gỗ. Phượng có chiều cao từ 6-12 mét, chiều ngang khá lớn phải hai người ôm mới xuể. Vỏ cây phượng khá xù xì. Đối với những cây phượng già thậm chí còn có thêm những cục u nổi lên thân cây một cách gồ ghề. Tạo nên tán cây rợp mát là chính là từ những lá cây với những chiếc lá kép.

Nhìn sơ qua có thể nhầm lẫn là lá me vì hình dáng mỏng là nhỏ của nó, cùng màu xanh cốm và mọc đối xứng nhau. Để trở thành một loài cây được trồng trong sân trường lấy bóng mát đặc thù như thế thì cây phượng phải sở hữu đặc điểm gì chứ. Đó chính là sự tỏa rộng và cao rợp của tán cây phượng, cành cây dài khoảng 20-40cm.

Bóng dáng của tán cây phượng từ xa nhìn lại trông như một chiếc ô khổng lồ, với vô vàn tán cây xen kẽ thi nhau mọc ra từ cành chính. Khoảng thời gian từ tháng năm đến tháng chín chính là mùa hoa phượng nở. Hoa phượng nở rất lâu và kéo dài xuyên suốt mùa hè rực rỡ. Hoa phượng có màu đỏ thẫm đặc trưng, một bông hoa gồm có 5 cánh hoa kết hợp lại.

Tuy nhiên không chỉ có một màu đỏ đơn sắc mà trên những cánh hoa cũng có những đốm màu vàng, cam nhạt. Cũng vì đặc điểm đó mà những cánh hoa phượng trông như những cánh bướm nhiều màu sắc và rực rỡ biết bao.

Một trong năm cánh hoa còn có một cánh hoa màu cam hoặc vàng nhạt. Cánh hoa này không hề mỏng và thẳng như những cánh bình thường, nó có những góc hơi quăn lại và cứng. Như một quy luật của tự nhiên, hoa tàn sẽ sinh ra quả. Khi hoa tàn từ đài hoa cũng mọc ra trái phượng. Trái phượng có hình dáng dài khoảng 60cm và dẹp hẳn lại.

Lúc còn non vỏ trái có màu xanh lá, khi chín thì chuyển thành màu đen và cứng lại. Bên trong trái chứa nhiều hạt nhỏ màu đen. Phượng là một loại cây rất dễ trồng. Nó thuộc loại cây ưa sáng, không kén đất và có sự phát triển rất nhanh. Bất kể ở những địa hình như đồi núi, ven biển, trung du thì cây phượng đều có khả năng sinh trưởng tốt.

Dù thế nhưng cây phượng lại có một nhược điểm đó chính là tuổi thọ của nó không được cao. Với những cây phượng được trồng và chăm sóc trong sân trường có tuổi thọ từ 40-50 năm tuổi. Còn đối với những cây phượng được trồng ngoài đường phố thì chỉ có tuổi thọ tới 30 tuổi. Khi đến tuổi thì thân cây bắt đầu già cỗi và có dấu hiệu mục rỗng.

Không chỉ là loài cây lấy bóng mát mà phượng còn có thể lấy gỗ. Gỗ của nó thuộc loại trung bình, được sử dụng trong việc xây dựng cũng như để xẻ ra và làm ván. Thậm chí nó còn có chức năng trị bệnh từ vỏ cây đến rễ cây. Rễ cây có thể làm thuốc chống sốt, thuốc hạ nhiệt. Còn có thể sử dụng vỏ cây để làm sắc nước uống.

Có tác dụng như trị tê thấp, sốt rét, đầy bụng hay giảm huyết áp. Lá cũng có tác dụng trị đầy hơi và trị tê thấp. Trái phượng vĩ với tính chất khô nên được dùng để làm củi. Thậm chí nó còn được dùng làm bộ gõ âm nhạc tại khu vực Caribe, được gọi là shak-shak hay maraca. Hạt của cây phượng còn có thể rang lên ăn với vị bùi bùi, nhiều dầu và thơm nữa.

Từ hoa phượng vĩ người ta còn tinh chế ra được hương và dầu thơm. Chúng được sử dụng để xoa bóp giúp cơ bắp đỡ căng cứng. Mùi hương của phượng vĩ rễ ăn sâu vào lòng người dù cho mùi hương của nó hơi nồng. Mùi hương này dễ dàng hòa nhập vào môi sinh. Người ta tin rằng phượng vĩ có thể giúp người khác cảm giác bớt căng thẳng hơn. Có lẽ vì vậy mà mỗi buổi trưa hè nắng gắt khi đứng dưới tán phượng ta lại hưởng thụ và thong thả đến thế.

Chính là những hương thơm này khiến cho tâm hồn ta dịu dàng và tận hưởng những phút giây trên sân trường.

(Phượng mười năm-Xuân Diệu)

Bởi vì mùa hoa phượng nở cũng trùng hợp chính là thời điểm nghỉ hè. Là lúc học sinh xa mái trường thân yêu, thầy cô dịu hiền và bạn bè đồng trang lứa. Dưới tán cây rợp hoa đó đã có biết bao giọt nước mắt chia ly của những cô cậu học trò, biết bao kí ức thân thuộc của đời học sinh. Chính bởi vì thế mà hoa phượng còn được gọi là hoa học trò.

Một cái tên thân thuộc và gần gũi biết bao. Hình bóng của những cánh hoa, màu sắc rực rỡ của nó dưới cái nắng hè chói chang đã khiến không biết bao tâm hồn thi sĩ, nghệ sĩ xao xuyến.

Trong chúng ta nếu như ai đã từng có một thời gian cắp sách đến trường thì chắc chắn vẫn luôn có một hình bóng phượng vĩ. Biểu trưng cho một thời ngây ngô, trong sáng và hồn nhiên tuổi học trò. Thời gian có thể khiến chúng ta thay đổi, nhưng kí ức sẽ mãi ở đó cùng với tán phượng của tuổi thơ.

Thuyết minh về cây phượng – Mẫu 11

Trong cuộc sống và những kỷ niệm học sinh, mùa hạ thường đến bằng mùa thi, cùng với những nhành phượng vĩ đỏ ối lấp ló báo hiệu ngày chia taỵ. Cùng với màu đỏ rực của phượng vỹ, là những hàng lưu bút, là những món quà nho nhỏ lưu niệm tặng nhau của những cô cậu học trò.

Phượng vỹ dường như là nhân chứng cho những tình yêu, lãng mạn mơ mộng vu vơ của thời học trò áo trắng cắp sách. Và còn nhiều nữa. Trong mỗi chúng ta, nếu đã trải qua thời áo trắng đến trường, ắt hẳn mỗi người đều mang một kỷ niệm đặc biệt, gắn liền với phượng vỹ. Từ bao giờ, phượng vỹ trở thành biểu hiện của mùa hạ, và của một thời học trò. Có phải vì thế mà phượng vỹ còn có cái tên Hoa Học Trò?

Phượng Vỹ có thật nhiều tên, từ tên khoa học Delonix regia, thuộc gia đình Caesalpiniaceae Họ poinciana có cùng một họ với đậu (Leguminosae), giống Delonix. Nguyên giống phát xuất từ Madagascar, phượng vỹ đã được đi du lịch đến khắp mọi miền nhiệt đới trên thế giới, nhất là đông nam Á và châu mỹ Latin.

Cũng vì vậy, phượng vỹ đã có thật nhiều tên gọi thông thường theo từng ngôn ngữ, ví dụ như: royal poinciana, flame tree, flamboyant, flame of the forest, ‘ohai-‘ulăHawaiian), Semarak Api(Malay), Flameado (Tây Ban Nha) hoặc Phượng Vỹ, v.v. Có lẽ vì màu sắc rực rỡ đỏ rực nổI bật trên nền trời, nên phượng vỹ được so sánh như những ngọn lửa giữa rừng chăng? Chỉ biết rằng, màu đỏ thắm của phượng vỹ đã được thổ dân vùng Madagascar cho vào hạng hoàng tộc của thảo mộc, cũng như nó được công nhận là hoa biểu tượng cho xứ Puerto Rico.

Thuộc vào loại thân mộc, cây phượng vỹ cao khoảng 6-12 mét, với tán lá xòe rộng như chiếc dù lớn, với những cành dài khoảng 20-40cm, dày đặc những lá kép nhỏ li ti. Hoa phượng đỏ thẫm, đường kính khoảng 6-10cm mỗi hoa, với năm cánh hoa xòe rộng. Cánh hoa đỏ thẫm với những đốm bầm li ti trên cánh, và một trong năm cánh hoa màu vàng cam, với những đốm đỏ thẫm, hơi quăn góc, và thô hơn những cánh còn lại.

Bên trong nhụy hoa là tập hợp của mười nhánh, dài khoảng 10cm, với phấn hoa thu hút ong bướm. Sau khi hoa tàn, từ đài hoa mọc ra trái phượng, dẹp và dài khoảng 2 feet, khi chín đen thẫm và vỏ cứng, với hạt phượng màu nâu thẫm bên trong. Trái phượng có thể được dùng làm củi đốt. Ở những miền quê Việt nam, đôi lúc hạt phượng được đem rang trong cát để ăn vì có nhiều dầu, vị bùi bùi thơm thơm.

Trong ngành tinh chế hóa chất, hương và dầu thơm(essence) của phượng vỹ được dùng trong việc xoa bóp(massage) làm giảm căng thẳng cơ bắp. Hương phượng vỹ giúp chúng ta có thể tách rời khỏi những phiền toái, và những cuộc tranh cãi không cần thiết. Biết sử dụng hương hoa phượng, người ta có thể thoải mái hơn, cũng như cảm thấy nhẹ nhàng hơn để bắc nhịp cầu liên lạc giữa người với người.

Bởi mùi hương hơi nồng, nhưng lại rất dễ dàng ăn sâu vào lòng người, cũng như sự chuyển vận và dễ dàng hòa nhập vào môi sinh, phượng vỹ vì thế được người ta tin tưởng có tác dụng làm cho con người bớt căng thẳng, dễ dàng kết bạn, dễ đi sâu vào lòng người…Nó giúp người ta giao thiệp dễ dàng hơn, và lịch sự hơn với nhau, cũng như vượt qua được những bực bội, giận dữ, để tâm hồn thoải mái hơn.

Phượng Vỹ được gọi là mệnh phụ của những loại cây cảnh. Với tán cây rực rỡ, hào nhoáng mỗi khi hoa nở rộ, loại cây duyên dáng này xứng đáng để được liệt kê vào hạng hoàng tộc trong tất cả các loại cây cảnh. Phượng vỹ nở rất lâu, và mùa phượng vỹ thường kéo rất dài, từ tháng năm, sáu đầu mùa hạ, cho đến cuối mùa vào tháng chín.

Thông thường vào mùa hạ ở những vùng nhiệt đới hay có giông bão, thế mà phượng vỹ lại rất kiên cường, và rất đáng ngạc nhiên rằng sau những cơn mưa bão đổ, cây vẫn không bị đốn, và hoàn toàn không sao cả. Chỉ có những cành cây giòn dễ gãy, để cho cả lùm cây phượng không bị đốn vì gió. Có thể vì thế mà cây phượng tồn tại được dưới trời bão chăng?

Vì cái đẹp của phượng vỹ, và vì sự bền bỉ của cây phượng qua bao nhiêu năm tháng, dù trụi cành giữa mùa đông nhưng xanh tươi trong những tháng ngày còn lại trong năm, và vì tán lá xanh um mở rộng như chiếc dù che nắng mưa, phượng vỹ có lẽ vì thế được ưa chuộng trong những khuôn viên học đường.

Cũng có lẽ vì vậy mà phượng vỹ thường hay được trồng trong những công viên, dọc theo hai bên đường phố hầu tạo được bóng mát trên đường, và làm cảnh đẹp mỗi mùa phượng nở. Có lẽ vì vẻ đẹp của hoa phượng khá rực rỡ, lại rất lạc quan, nên mỗi năm vào tháng sáu, miền nam Florida thường tổ chức hội hoa Phượng Vỹ (Royal Poinciana Fiesta) để cùng thưởng hoa, như người Nhật thường có hội hoa Sakura chăng?

Chỉ biết, hàng năm, tại quê nhà, mỗi mùa phượng vỹ nở rộ, là mỗi người trong chúng ta lại nao nao nhớ về một mùa phượng vỹ riêng của chính mình. Cũng có lẽ vì vẻ đẹp của phượng vỹ mà biết bao người, từ Âu đến Á, đã viết biết bao nhiêu mẩu truyện, làm biết bao nhiêu bài thơ, họa bao bức tranh, và nhất là phối âm bao nhiêu bản nhạc riêng cho phượng vỹ, ví dụ như bản “Poinciana”, và có phải vì thế, bao tâm hồn thi sĩ bắt đầu biết nhớ, và biết mong “Sớm Nở Phượng Yêu”.

Thuyết minh về cây phượng – Mẫu 12

Mùa hạ gắn liền với những ngày nắng gắt, với tiếng chim tu hú kêu, tiếng hát ve sầu trên những kẽ lá. Với học sinh, mùa hạ đến cũng là lúc năm học kết thúc, mở ra kỳ nghỉ hè. Đặc biệt, không thể không nhắc đến cây phượng được mệnh danh là cây báo hiệu mùa hạ của học sinh.

Cây phượng không phải là loài cây sinh trưởng ban đầu tại Việt Nam mà nó có nguồn gốc từ Madagascar, ở cánh rừng miền Tây Malagasy và mới được du nhập về nước mình vào cuối thế kỷ XIX ở các tỉnh Hà Nội, Hải Phòng, đặc biệt được trồng nhiều tại Hải Phòng. Tuy vậy, cây phượng gắn liền với một sự tích trong dân gian, kể rằng gia đình thầy dạy võ có 5 người con văn võ song toàn. Đến khi có giặc xâm lăng, cả sáu người cùng tham trận. Không may, khi giặc yêu cầu mang nong thức ăn sang trại giặc, người bố bị ốm nhưng vẫn cố gắng mang năm nong có năm người con giấu kỹ bên trong. Khi đến trại dịch, năm người con thần tốc đánh bại địch song thầy dạy võ không đợi được ngày tháng, qua đời. Năm người con mặc áo đỏ trồng năm cây quanh mộ cha. Thời gian trôi khi cả năm người con đều không còn, năm cây này nở thành những đóa hoa năm cánh, đỏ tươi.

Về đặc điểm, cây phượng là loại cây thân gỗ, tán rộng, hai lá mầm, rễ cọc. Thân cây phượng to, rộng vừa đủ một vòng tay người trưởng thành, thân sần sùi, có thể đạt tới chiều cao 10 – 15m nhưng hầu hết phượng ở nước ta chỉ cao tầm 4 – 5 m. Loại cây này thường có vòng đời ngắn, khoảng 25 – 30 năm. Cành cây dài khẳng khiu, vươn ra tứ phía, thường mọc lá nhỏ vào mùa thu đông, đông xuân. Đến mùa hạ, cây có hoa phượng 5 cánh, màu đỏ tươi, nhị vàng nhạt, trong đó một cánh dài nhỉnh hơn, mọc thẳng. Bốn cánh còn lại có xu hướng vươn ra ngoài. Quả cây phượng mang màu nâu sẫm, dạng dẹp và chỉ dài 5 cm, bên trong có các hạt nằm riêng rẽ nhau.

Để gieo trồng cây phượng, người ta mua hạt giống và gieo trồng trên những vùng đất ẩm, nhiệt độ bình thường. Khoảng một, hai tuần hạt giống phát triển cây con, rể ngày càng mọc dài hơn. Tùy vào mức độ chăm sóc, dinh dưỡng cung cấp cho cây mà thời gian phát triển thành cây con có thể khác nhau. Song các cây phượng thường phát triển đến khoảng 4 – 5 m hoặc có thể lên đến 10 – 15m. Cây thường ra tán lá xanh và chỉ đến khoảng tháng 4 mới đến mùa cây ra hoa, hoa phượng gồm 5 cánh, màu đỏ rực, nhị màu vàng tươi, tỏa hương thơm ngát. Sau mùa ra hoa là mùa kết quả, những hoa phượng biến mất thay vào đó là quả nâu sẫm, dài khoảng 5cm, một quả có nhiều hạt, các hạt ở riêng rẽ nhau. Quả phượng ăn được, có vị chát chát đầu lưỡi, vị ngọt bùi trong miệng.

Cây phượng thuận lợi phát triển trên các vùng đất có khí hậu nóng ẩm, mưa nhiều, ở những vùng có khí hậu khô hạn cây thường trơ trụi, ra hoa phượng nhỏ, màu vàng nhạt. Để cây luôn tươi tốt, bạn nên biết những cách chăm sóc, nuôi trồng cây như tưới nước, bảo vệ cây non,…. Khi cây non mới mọc, phần thân không chắc chắn, bạn cần cắm giàn, cọc để hướng cây mọc thẳng đứng. Giai đoạn này rất cần nước, độ ẩm nên bạn hạn chế ánh sáng mặt trời chiếu trực tiếp vào cây. Việc tưới nước cho cây non, nhỏ nên duy trì 2 lần/ tuần, còn cây phượng trưởng thành chỉ cần tưới 2 ngày/ lần.

Có thể nói, cây phượng mang lại nhiều giá trị đặc biệt, ý nghĩa với con người, với xã hội. Cây được trồng tại các nơi công cộng, công viên, vỉa hè, trường học để tạo bóng mát vào những ngày nắng gắt mùa hạ thu, khi cây ra hoa là lúc cây phượng rực rỡ nhất, thu hút nhiều du khách đến thăm, ngắm nhìn cảnh đẹp. Với học sinh, cây phượng là người bạn đồng hành suốt những năm tháng học tập dưới mái trường, chơi đùa và học tập dưới tán cây. Những con điểm tốt được ví như những bông hoa phượng trên trang giấy

Như vậy, cây phượng đóng một vai trò quan trọng với học sinh nói chung, xã hội nói riêng dù trải qua bao năm tháng, bao thập kỷ đã trôi qua. Vì thế hãy chăm sóc, nâng niu từng bước phát triển, sinh trưởng của cây phượng để chúng luôn nở đỏ sân trường mỗi khi mùa hạ về.

Thuyết minh về cây phượng – Mẫu 13

Mỗi loài cây, mỗi loài hoa sinh ra trên đời đều mang một ý nghĩa và biểu tượng riêng. Nếu cây phát lộc biểu tượng cho sự may mắn, cây liễu là chuẩn mực cho vẻ đẹp yêu kiều của người phụ nữ, cây tùng thể hiện khí chất hiên ngang, ngay thẳng của người quân tử thì cây phượng vĩ – loài cây hết sức giản dị và thân thuộc lại là biểu tượng của tuổi học trò, là sự báo hiệu cho một mùa chia tay đầy thương nhớ. Cây phượng vĩ đã trở thành một người bạn thân thiết của tuổi học trò.

Ngay từ cái tên phượng vĩ đã gieo vào lòng người nhiều bí ẩn. Đó là chữ ghép Hán Việt, có nghĩa là đuôi con chim phượng. Cách gọi này cũng khá hợp lí và tinh tế bởi các lá cây đặc biệt là các lá non trông giống như hình vẽ đuôi của loài chim phượng. Phượng vĩ còn có tên gọi khác là xoan tây hay điệp tây, thuộc loại thực vật có hoa, thường sinh sống ở vùng nhiệt đới hoặc cận nhiệt đới.

Theo các nghiên cứu thì phượng vĩ có nguồn gốc từ những cánh rừng ở Madagascar. Còn ở Việt Nam, phượng vĩ được du nhập vào khoảng cuối thế kỉ XIX bởi một người Pháp. Khi ấy, loài cây này thường xuất hiện ở các tỉnh thành như Hải Phòng, Đà Nẵng, Sài Gòn.

Ở Việt Nam, phượng vĩ được trồng khá phổ biến, đặc biệt là ở dọc các con đường, ở trong sân trường học bởi khả năng tạo bóng mát của cây. Đây là loại cây dễ trồng, thích hợp với mọi loại đất từ khô cằn đến màu mỡ; phát triển tốt trên mọi địa hình từ đồng bằng đến trung du và núi cao. Tuy nhiên, loài cây này lại có tuổi thọ không cao, trung bình từ 30 đến 50 năm tùy vào điều kiện chăm sóc và thời tiết.

Một cây phượng vĩ lớn có thể cao đến 20m, tán tỏa ra tứ phía với đường kính lên tới 8m. Rễ cây thuộc loại rễ chùm, đâm sâu xuống lòng đất hút chất dinh dưỡng nuôi cây đồng thời bám sâu vào lòng đất để cây luôn đứng vững trước những bão tố dữ dội. Những chiếc rễ cây lâu năm to như những con rắn khổng lồ.

Mỗi bông hoa có bốn cánh tỏa rộng màu đỏ hay màu đỏ cam, cánh thứ năm mọc thẳng và lớn hơn các cánh hoa còn lại một chút. Cánh hoa cuối cùng này khá đặc biệt, có lấm tấm những đốm màu vàng, màu trắng. Hoa phượng không mọc riêng lẻ mà kết thành từng chùm từ năm đến tám bông hoa.

Advertisement

Khi nắng ngày càng chói chang và ve cất tiếng râm ran cũng là lúc phượng nở. Mới ngày nào còn e lệ, chúm chím, điểm vài sắc đỏ giữa màu xanh bát ngát thì hôm nay đã bật tung ra, đỏ rực cả một khoảng trời. Phượng nở lại báo hiệu một mùa chia tay sắp đến, gieo vào lòng người những bồi hồi, xao xuyến; những tiếc nuối, nhớ nhung.

Thuyết minh về cây phượng – Mẫu 14

Trong đời sống, cây phượng vĩ giữ một vai trò quan trọng và thiết yếu. Cây tạo bóng mát vào những ngày hè oi ả, làm dịu đi cái nắng cháy da cháy thịt kia. Dưới bóng phượng là nơi vui chơi của các cô cậu học trò. Cây phượng đứng đó, sừng sững giữa một góc sân tưởng như chẳng hề đổi thay mà đã chứng kiến bao kỉ niệm, bao cảm xúc chẳng thể có lại lần thứ hai. Đó là vòng tay ấm áp dang rộng khi ngày đầu tiên ta đi học, là ánh mắt luyến tiếc, là lời nhắn gửi tâm tình ngày ta ra trường. Cứ thế, cứ thế thầm lặng và giản đơn, cây phượng vĩ đã ghi dấu những chặng đường thời học sinh.

Cây phượng vĩ không biết tự bao giờ đã chất chứa những giá trị tinh thần to lớn. Có cả một thành phố được mệnh danh là “thành phố hoa phượng đỏ”- Hải Phòng bởi nơi đây vào mùa hạ luôn rực đỏ trong sắc phượng. Hay bài thơ “Thời hoa đỏ” của nhà thơ Thanh Tùng đã được nhạc sĩ Nguyễn Đình Bảng phổ nhạc khi hồi tưởng lại những kỉ niệm tuổi trẻ gắn với màu đỏ phượng vĩ.

Một loài cây tưởng như bình thường nhưng lại có vai trò rất quan trọng trong cuộc sống con người. Ngày nay khi đất nước đang vươn mình đứng dậy, hội nhập cùng thế giới với quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa thì mỗi chúng ta càng cần giữ gìn và tích cực trồng phượng vĩ nhiều hơn để tạo một không gian xanh sạch đẹp.

Trong cuộc đời mỗi con người thì quãng đời học sinh là khoảng thời gian rực rỡ nhất và đẹp đẽ nhất trong cuộc đời mỗi con người. Thời học sinh gắn liền với những trang lưu bút, những bộ đồng phục, chiếc áo dài trắng tinh khôi và đặc biệt là một loại cây, loại cây mà không thể nào thiếu, không thể nào không nhắc đến khi nói đến năm tháng thời học sinh đó là cây phượng.

Phượng là loại cây có từ lâu, phượng có nguồn gốc từ Madagasca. Đến tận cuối thế kỉ XIX thì phượng được du nhập vào các thành phố lớn ở Việt Nam như Hải Phòng, Đà Nẵng. Và cũng chính vì vậy mà ngày nay Hải Phòng được mệnh danh là thành phố hoa phượng đỏ Bởi vậy mà cứ đến dịp hè khi phượng ra hoa thì Hải Phòng lại được đón một lượng du khách lớn đến để ngắm sắc đỏ rực rỡ trên khắp các con phố ở Hải Phòng.

Phượng, ngoài cái tên này ra thì cây này có rất nhiều tên gọi khác nhau như phượng vĩ, xoan tây, điệp tây hoặc hoa nắng. Tên tiếng anh của nó còn được gọi là Mohur tree, bởi phượng được trồng rất nhiều nơi trên thế giới nên mỗi vùng miền nó lại được gọi bằng một cái tên khác nhau. Phượng là cây thuộc họ fabaceae và phượng sinh sống ở những vùng nhiệt đới hoặc cận nhiệt đới bởi vậy nên phượng mới thích nghi với điều kiện nóng ẩm ở Việt Nam.

Phượng thường không cao như những loài cây cổ thụ khác. Cao nhất cũng chỉ khoảng 20m. Phượng có tán rộng nên gốc phượng thường là nơi trú cái nắng hè oi ả của các bạn học sinh. Phượng là loại cây thân gỗ. Thân cây nhỏ không có kích thước quá to. Thân phượng màu nâu sẫm bao bọc bên ngoài là lớp vỏ xù xì gai góc.

Lá phượng đặc biệt, không giống với những chiếc lá cây khác. Mà lá phượng nhỏ xíu, lấm chấm li ti mọc đối xứng qua một xương lá tạo thành những chiếc lá canpo, những chiếc lá nhỏ ấy lại được gắn đối xứng nhau qua một chiếc xương lớn tạo thành một chiếc lá hoàn chỉnh .Chính vì cấu trúc đặc biệt như vậy nên lá phượng thưa thớt chứ không đặc kín như lá bàng, lá bằng lăng.

Lá phượng thuộc họ lá kép lông chim, lá thường có màu xanh lục. Đặc biệt vào mùa khô lá cây thường xuyên vàng và lá bắt đầu rụng vào khoảng thời gian này. Phượng có tán rộng dài, vươn xa. Mỗi cành lớn thường có nhiều nhánh nhỏ đan xen chi chít khiến cây phượng có hình dáng như những chiếc ô khổng lồ xanh mướt tỏa bóng râm mát tránh cái nắng gắt, oi ả của ngày hè.

Cây phượng có rễ to, thuộc loại rễ cọc. Là rễ cọc nên nó đâm sâu xuống đất hút chất dinh dưỡng nuôi cây. Có một số cây phượng có phần rễ nổi trên mặt đất, đó là những chiếc dễ dài, ngoằn ngoèo và có kích thước tùy theo độ tuổi của cây. Nhờ có những chiếc rễ to, khỏe hút chất dinh dưỡng nuôi cây mà đến dịp hè cây mới bung hoa khoe sắc.

Hoa phượng thường có màu đỏ thẫm hoặc đỏ tươi. Hoa phượng có năm cánh trong đó có một cánh gọi là cánh lớn. Cánh lớn có đặc điểm hình dáng khác so với bốn cánh còn lại. Cánh lớn có màu đỏ, mọc chính giữa trên lá có lốm đốm màu vàng. Màu đỏ của hoa là màu của nắng của gió là màu đỏ của cái nắng gay gắt của mùa hè oi ả. Tuy bông hoa phượng ấy mang sắc đỏ gay gắt nhưng khi nó hòa quyện với màu xanh của lá, vàng của nắng, màu xanh trong trẻo của của bầu trời mùa hè thì lại tạo nên một bức tranh thật tuyệt đẹp.

Quả phượng dài, dẹp màu đen, bên trong có nhiều hạt rất cứng . Ở Việt Nam thì quả phượng chưa có nhiều lợi ích trong cuộc sống nhưng ở Caribe thì họ đã biết sử dụng những quả phượng để làm nên bộ gõ để sử dụng trong âm nhạc. Phượng có tuổi đời không cao chỉ tầm khoảng 20-30 năm tuổi. Nhưng phượng lại có thể tái sinh rất dễ dàng, có thể trồng bằng chồi hoặc hạt và phát triển rất nhanh trên mọi địa hình và đất trồng.

Bên cạnh lợi ích của hầu hết mọi cây là tạo bóng râm che mát và làm đẹp cho con phố phường, trường học thì nó còn là cây gợi nhắc cho chúng ta về những kỉ niệm tuổi thơ, thời cắp sách tới trường. Mỗi khi hè tới, tiếng ve bắt đầu râm ran trên các vòm cây thì phượng cũng bắt đầu ra hoa. Phượng nở cũng là lúc lũ học sinh háo hức được nghỉ hè, cũng là lúc tụi học sinh khóc nức nở vì sắp phải chia xa, phượng nở đem bao niềm vui nỗi buồn của học sinh.

Phượng là loại cây vừa hữu ích, vừa làm đẹp cho đời. Bởi những lợi ích của nó là một người dân chúng ta cần có ý thức giữ gìn và chăm sóc cây để có thể khoe sắc cho đời.

Thuyết minh về cây phượng – Mẫu 15

Chắc hẳn ai đã từng đi qua tuổi học trò đều thấy nhớ, thấy thương một thời áo trắng mộng mơ, ngây thơ mà trong sáng. Tuổi học trò gắn liền với biết bao nhiêu kỉ niệm, nhưng có lẽ kỉ niệm bên những gốc phượng có thể sẽ không bao giờ quên. Mỗi khi tiếng ve râm ran trong các vòm lá, khi ánh nắng như rót vàng rót mật xuống trần gian thì cũng là lúc hè về, phượng nở. Phượng nở mang theo hoài niệm, nỗi nhớ thương vơi đầy, là người bạn đồng hành trong suốt quãng đời học sinh. Có lẽ vì thế mà người ta gọi phượng với một cái tên âu yếm “cây học trò”.

Phượng là loài cây thân gỗ. Rễ phượng thuộc loại rễ cọc, cắm sâu xuống lòng đất để hút chất dinh dưỡng, một vài rễ to trồi cả lên mặt đất, trông như những con rắn bò ngoằn ngoèo. Thân phượng rất cao, từ 6 – 12 mét. Cây bé thì chiều ngang bằng một vòng tay người lớn, còn cây to thì hai người ôm mới xuể. Thân cây màu nâu sẫm đầy những vết sần, cục u nhuốm màu thời gian. Từ thân mọc ra nhiều cành to và nhỏ như những cánh tay vươn ra tứ phía để đón ánh nắng mặt trời. Lá cây là loại lá kép, màu xanh cốm, mỏng và nhỏ như lá me, mọc đối xứng nhau. Tán cây cao và rộng, trông ra như những chiếc ô khổng lồ. Vì thế phượng được trồng nhiều ở trên đường, trong công viên sân trường vừa để làm đẹp, vừa cho bóng mát. Hoa phượng có năm cánh to, mỏng, mịn như nhung, màu đỏ thắm hoặc đỏ cam. Cánh hoa thứ năm mọc thẳng, cánh hoa này lớn hơn một chút so với bốn cánh kia và lốm đốm màu trắng/vàng hoặc cam/vàng (cũng có khi trắng/đỏ). Phượng nở rực rỡ nhất vào tháng Sáu. Hoa phượng mọc thành từng chùm to, mỗi cành lại có nhiều chùm như thế, trông xa như những đốm lửa khổng lồ. Ở giữa hoa là nhuỵ hoa có hình bầu dục, dài và cong. Tụi học trò thường lấy nhụy hoa để chơi chọi gà vào những giờ ra chơi. Những cô bạn gái dịu dàng còn lấy cánh hoa phượng ép trong cuốn nhật ký để lưu giữ những kỷ niệm, hoặc là:

(Phượng hồng) Hết mùa phượng nở, quả phượng bắt đầu phát triển. Quả là loại quả đậu có màu nâu sẫm khi chín, dài tới 60 cm và rộng khoảng 5cm. Bên trong là hạt phượng có thể rang lên để ăn hoặc làm củi đốt.

Ở Việt Nam, phượng được trồng ở những thành phố lớn như Hà Nội, Hải Phòng, Sài Gòn, Đà Nẵng. Ở Hà Nội, ven Hồ Tây có “con đường hoa phượng” vì có mấy trăm cây phượng được trồng hai bên đường, đem đến vẻ đẹp rực rỡ cho thủ đô mỗi khi hè về. Còn Hải Phòng được mệnh danh là “thành phố hoa phượng đỏ”.

Cây phượng từ xưa đến nay đã trở thành nguồn cảm hứng cho biết bao nhà văn, nhà thơ, nhạc sĩ sáng tác:

(Phượng hồng – Quốc Phương)

Hay

(Giữ hạ – Quốc Phương) Nhà thơ Thanh Tùng có bài thơ “Thời hoa đỏ” đã được nhạc sĩ Nguyễn Đình Bảng phổ nhạc thành bài hát cùng tên, viết về những kỷ niệm của tuổi trẻ với mùa hoa phượng vĩ, tản văn “Hoa học trò” của Xuân Diệu. Nhà văn Nguyễn Nhật Ánh đã lấy sắc đỏ của hoa phượng để đặt tên cho tập truyện ngắn “Hạ đỏ” của mình. Không phải nghiễm nhiên mà hoa phượng được mệnh danh là “hoa học trò”. Không phải là sắc tím biếc thủy chung và nhanh tàn như hoa bằng lăng, hoa phượng rực rỡ suốt mùa hè, suốt một mùa thi, chở cả bao hoài niệm, ước mơ của tuổi học trò. Mỗi khi nhìn thấy hoa phượng đơm bông, học trò cuối cấp lại rưng rưng nỗi nhớ, trào dâng nỗi xúc động xốn xang:

“Hoa phượng đỏ sân trường như muốn nói

Mùa chia ly đỏ chói giấc mơ đầu” Ngày tổng kết, ai cũng đội trên đầu mình được vòng được kết từ hoa phượng nhưng ý nghĩa vô cùng. Cây phượng đứng ở giữa sân trường như bác bảo vệ già ngày ngày che mát cho sân trường, cho lũ học trò vui đùa thỏa thích

“Hoa học trò” cứ thế khẳng định vị trí của mình trong đời sống học trò nói riêng và con người nói chung. Sắc đỏ rực rỡ đã làm say đắm bao tâm hồn nhiều thế hệ. Nếu ai đã từng đi qua quãng đời học trò chắc hẳn đều ghi nhớ những kỉ niệm gắn với cây phượng thân yêu.

Thuyết minh về cây phượng – Mẫu 16

Trong những năm tháng học trò của chúng ta, ai một lần chẳng đứng dưới gốc phượng mà ngắm nhìn xao xuyến mỗi mùa hè về để rồi phải thốt lên: “Vậy là một năm học lại sắp kết thúc.” Cây phượng vĩ một trời đỏ rực cứ vậy đi vào tiềm thức, đi vào tuổi thơ của lũ học trò nhỏ và trở thành một buổi tượng của tuổi học trò hồn nhiên.

“Phượng vĩ’ là một chữ ghép Hán Việt, có nghĩa là đuôi con chim phượng. Có lẽ cái tên này bắt nguồn từ bông hoa của cây có màu và hình dáng giống con chim phượng. Phượng vĩ có nguồn gốc từ những cánh rừng ngự tại Madagascar. Người ta nói rằng phượng vĩ du nhập vào Việt Nam khoảng cuối thế kỷ XIX bởi một người Pháp. Đối với khí hậu nhiệt đới, cây phượng phát triển tốt, bởi vậy mà ta có thể thấy hình ảnh những hàng phượng vĩ quen thuộc ở dọc những vỉa hè con phố lớn hoặc ở trong sân trường tại Việt Nam.

Phượng là loại cây thân gỗ. Một cây phượng thông thường có chiều cao khoảng từ 6-12 mét. Thân cây phượng vĩ khá to một người ôm không xuể. Rễ cây thuộc loại rễ chùm, đâm sâu xuống mặt đất để hút chất dinh dưỡng nuôi cây. Một vài chiếc rễ nổi hẳn lên trên mặt đất, ngoằn ngoèo như những con rắn khổng lồ. Vỏ cây màu nâu sẫm, sần sùi với những cục u to như chiếc bát úp. Lá cây thuộc loại lá kép, màu xanh cốm, mỏng và nhỏ như lá me, mọc đối xứng với nhau như xương cá. Thỉnh thoảng có làn gió nhẹ thổi qua thì những chiếc lá đu đưa rung rinh trong nắng như những chiếc quạt phe phẩy trong không gian. Từ thân cây mọc ra nhiều cành to và nhỏ như những cánh tay vươn ra đón lấy ánh nắng mặt trời tạo thành từng tán khổng lồ tỏa bóng râm xuống một khoảng rộng trên mặt đất. Đặc biệt, cây phượng đi vào lòng người bởi những chùm hoa phượng đỏ rực như những đốm lửa rực rỡ mỗi mùa hè về. Hoa phượng có năm cánh to, mỏng, sờ vào mịn như nhung. Riêng cánh thứ năm mọc thẳng và lớn hơn các cánh còn lại một chút. Cánh hoa cuối cùng có những đốm màu trắng, màu vàng trông khá lạ mắt.Hoa phượng khoác lên mình lớp áo đỏ thắm hoặc đỏ cam như được nhuộm bởi ánh nắng hè gay gắt. Phượng không nở riêng lẻ từng bông mà nở thành từng chùm từ năm đến tám bông. Bởi vậy, mỗi khi tiếng ve kêu râm ran báo hiệu mùa hè trở về thì cũng là lúc cả cây phượng rực một sắc đỏ, nhìn từ xa như một mâm xôi gấc khổng lồ. Hoa phượng rụng cũng là lúc quả phượng bắt đầu phát triển. Quả phượng màu nâu sẫm khi chín, cong cong như lưỡi liềm, có khi dài tới tận 60cm và rộng khoảng 5cm. Tách lớp vỏ bên ngoài ra, bên trong là hạt phượng có thể rang lên để ăn hoặc để làm củi đốt.

Phượng thường trồng để lấy bóng râm cũng như để làm đẹp thêm cho quang cảnh ở hai bên đường phố hay trên sân trường. Cây phượng vĩ gắn bó với học sinh trong suốt những năm tháng cắp sách tới trường. Cứ mỗi giờ ra chơi, từng tốp học sinh lai ngồi dưới gốc phượng râm mát chơi đùa, trò chuyện vui vẻ. Lũ học trò thường nhặt những bông hoa phượng rụng để chơi chọi gà. Tiếng cười, tiếng nói rôm rả cả một góc sân. Vỏ và rễ cây phượng còn dùng để làm thuốc hạ nhiệt, chống sốt còn thân cây có thể dùng để lấy gỗ. Hình ảnh cây phượng còn là cảm hứng đi vào trong thi ca, âm nhạc. Xuân Diệu từng có tản văn “Hoa học trò”, nhà thơ Thanh Tùng lại có tác phẩm “Thời hoa đỏ” và còn biết bao những bài hát du dương mà sâu lắng cất lên với hình ảnh hoa phượng vĩ đỏ thắm:

Cứ mỗi khi hạ về, phượng vĩ nở lại báo hiệu một mùa chia tay sắp đến. Phượng vĩ sẽ mãi trở thành một biểu tượng khó phai trong lòng người, gợi nhớ gợi thương về một thời học trò vui tươi với biết bao ước mơ, hoài bão.

Văn Mẫu Lớp 9: Thuyết Minh Về Cây Chuối Dàn Ý &Amp; 12 Bài Văn Mẫu Lớp 9 Hay Nhất

I. Mở bài

Giới thiệu về cây chuối: Cây chuối là một loại cây rất phổ biến ở Việt Nam. Đi khắp vùng quê trên đất nước đều thấy chuối một loại cây mang lại một cảm giác thân thiện và dân dã.

II. Thân bài

1. Đặc điểm

a. Hình dạng

Cây chuối thân mềm, hình trụ, tán lá dài mỏng, xanh và mượt.

Gốc chuối tròn, rễ chùm ăn sâu dưới đất, và rễ lớn dần theo thời gian.

Buồng chuối: Tùy theo mỗi cây mà buồng chuối to nhỏ khác nhau, có những cây chuối trăm quả, nghìn quả và có cả những buồng chuối dài đến tận gốc.

Cây chuối rất ưa ẩm nên thường sống bên cạnh ao hồ, hay sông suối

Chuối phát triển rất nhanh và mọc thành từng khóm, từng bụi chen chúc.

b. Nơi sinh sống

Cây chuối từng sống nơi ẩm ướt, nên thường mọc bên sông, suối, ao hồ.

Cây chuối thích nghi với môi trường nhiệt đới.

Chuối thường không bám chặt trên đất nên thường rất dễ ngã.

2. Các loại chuối

Chuối sứ: Chuối sứ to tròn, chín màu vàng tươi.

Chuối ngự: Chuối ngự to, thơm và ngon.

Chuối cau: Nhỏ như quả cau, vàng tươi khi chín.

Chuối tiêu: Nhỏ vừa, chín rất ngọt và thơm.

Chuối lùn: Quả to dài, thơm và ngon.

Chuối hột: Quả to, bên trong hạt chi chít như hạt tiêu.

Chuối kiểng: Là cây không trái.

3. Công dụng

– Tất cả bộ phận của cây chuối có thể sử dụng được.

Lá: Gói bánh, làm thức ăn cho thực vật…

Thân: Thức ăn

Quả: Thức ăn

Gốc: Thức ăn

– Chuối góp phần tạo nên các món ăn ngon.

– Quả chuối là một thực phẩm bổ dưỡng và bổ ích.

– Chuối có thể chữa bệnh.

– Làm mặt nạ dưỡng da.

4. Ý nghĩa của cây chuối

Trong thơ ca: Chuối đi vào thơ ca một cách thân thuộc và dân dã.

Trong thi ca: Trong các bức họa đồng quê bên cạnh các con sông luôn gắn với cây chuối.

Cây chuối rất hữu ích với người dân.

III. Kết bài

Nêu cảm nghĩ về cây chuối: Cây chuối là một loại cây thân thuộc và gắn bó với người dân Việt Nam. Bên cạnh tre, nứa thì chuối cũng một hình ảnh dân dã, thể hiện sự bất khuất của người dân.

Thiên nhiên đã ban tặng con người hoa thơm và trái ngọt, mỗi cây mỗi loại đều mang lại những công dụng diệu kỳ cho con người. Một trong những loài cây có sự gắn bó mật thiết với cuộc sống con người là cây chuối. Hình ảnh những thân chuối thẳng tắp, từ vườn cây áo cá, bụi bờ đã trở thành hình ảnh quen thuộc ở khắp các miền quê trên lãnh thổ Việt Nam.

Chúng ta có thể bắt gặp cây chuối ở bất kì nơi đâu trên khắp hành tinh này, từ Châu Á tới châu Âu, châu Phi. Không ai biết cây chuối xuất hiện từ thời kì nào, thế nhưng có ý kiến cho rằng, cây chuối có nguồn gốc từ vùng nhiệt đới châu Á và Úc hoặc từ vùng đầm lầy Kuk của Papua New Guinea từ 5000 TCN. Chuối được thuần hóa từ những cây chuối rừng với hạt to và cứng, trở thành loài cây phổ biến với quả ngọt, ít hạt trên khắp hành tinh. Chuối thuộc chi Musa, là loài cây thân thảo lớn nhất. Hiện tại, chuối đã có mặt rộng rãi trên thế giới, ít nhất 107 quốc gia có sự xuất hiện của chúng.

Chuối thường được trồng nhiều ở các vùng quê và miền núi. Đây là loài ưa nước, thường mọc thành bụi tầm ba bốn cây bên cạnh những nơi có nước như ao, hồ, sông suối. Chuối có thể cao từ hai đến tám mét, cây chuối gồm các bộ phận như thân, củ, lá, hoa, quả chuối.

Thân chuối còn được gọi là thân giả có hình trụ, cao từ sáu mét tới hơn bảy mét. Chúng được hình thành bởi các bẹ chuối xếp chồng lên mau, bao bọc lấy nhau tạo thành. Thân chuối trơn nhẵn, màu xanh nhạt, bẹ bên ngoài có màu sắc đậm hơn so với bẹ bên trong. Nó được mọc lên từ một thân ngầm dưới mặt đất. Thân ngầm này được gọi là củ, mọc rễ chùm. Củ có hình vòng cung nửa tròn, màu nâu đậm và tiếp giáp với thân giả.

Một bộ phận khác của cây chuối là lá chuối. Lá chuối có hình xoắn, mọc lên từ thân cây. Nõn chuối phía trong màu xanh non, cuộn tròn như cuốn thư thời xưa. Một thân chuối gồm nhiều tàu lá mọc lên tua tủa. Lá chuối to và dài, rộng tầm sáu mươi centimet, và có màu xanh đậm. Sống lá dọc dài từ bẹ đến đầu tàu lá, có thể dài tới hơn ba mét. Lúc lá chuối già sẽ ngả từ màu vàng sang nâu rồi rũ dần xuống thân cây.

Chuối là loài cây có hoa. Hoa chuối là hoa lưỡng tính, hoa cái sẽ tạo thành quả còn hoa đực sẽ phát triển thành bắp chuối. Khi mọc, hoa chuối sẽ hướng thẳng lên trời rồi dần dần đâm sang ngang và cuối cùng là cúi xuống mặt đất.

Một hoa chuối sẽ phát triển thành một buồng chuối với nhiều nải. Mỗi buồng có từ ba đến hai mươi nải, mỗi nải sẽ có nhiều quả xếp xen kẽ với nhau. Chuối còn non có màu xanh đậm, sau khi chín sẽ bắt đầu ngả vàng. Quả chuối khi xanh sẽ có vị chát, khi chín có vị ngọt, mềm và rất thơm. Bao quanh quả là lớp vỏ dai, kế tiếp là nhiều bó sợi libe nằm giữa thịt và vỏ, sau cùng mới là lớp thịt ngon mềm phía trong. Chuối là loại quả bổ dưỡng bởi chúng tích hợp rất nhiều vitamin a, vitamin C cũng như kali và các chất dinh dưỡng khác.

Cây chuối rất phổ biến và được trồng ở khắp nơi, chính vì thế mà chúng có nhiều loại khác nhau và mỗi loại đều có những đặc điểm riêng của mình. Phân loại theo độ thuần hóa, ta có chuối rừng và chuối bình thường đã thuần hoá. Chuối rừng hay chuối dại có nhiều hạt cứng, ít thịt. Còn chuối bình thường thì thiếu hạt cũng như phần thịt bên trong rất nhiều, mềm và ngọt hơn. Chuối đã được thuần hóa cũng phân thành các loại khác nhau như chuối ngự, chuối tiêu, chuối sứ, … Mỗi loại đều có vị ngon riêng của mình. Phân loại theo vỏ chuối. ta có chuối vỏ đỏ, vỏ vàng và vỏ tím. Trong đó, chuối vỏ vàng là loại phổ biến nhất.

Chuối rất phổ biến, bởi hầu hết các bộ phận của chúng đều có thể ăn cũng như sử dụng được. Quả chuối khi chín rất thơm ngon nên rất nhiều người yêu thích loại trái cây này. Chúng có thể phòng chống các bệnh về ung thư, cũng như các bệnh về tim mạch hay chuột rút,… Chúng cũng giúp phụ nữ trong quá trình làm đẹp, bởi vậy mà ngày xưa, chuối còn được coi là một cống phẩm xa xỉ dành cho vua chúa.

Quả chuối xanh được sử dụng trong các món ăn thường ngày, dùng để ăn kèm với thịt luộc hay nấu kèm với các thực phẩm có vị tanh như cá hay ốc. Chuối xanh có vị chát sẽ giúp khử mùi tanh rất tốt, đồng thời làm món ăn thêm ngon và đa dạng hơn. Lá chuối dùng để gói rau củ hoặc gói bánh đều rất an toàn và tiện dụng, lá chuối khô và bẹ chuối khô được tận dụng để làm dây buộc, cũng như có thể đan thành những đồ vật trang trí như giỏ hoa, quà,…rất an toàn với con người và bảo vệ môi trường. Hoa chuối, củ chuối cũng có thể làm thành các món ăn thơm ngon khác như nộm hay salad,…Thân chuối tươi có thể chế biến thức ăn cho gia súc, gia cầm. Ngoài ra, hạt chuối là một vị thuốc rất tốt trong Đông y dùng để chữa bệnh sỏi thận hay tiết niệu, …

Đặc biệt, mỗi dịp Tết đến xuân về, trên mâm ngũ quả ở miền Bắc Việt Nam thường không thể thiếu nải chuối. Chuối tượng trưng cho sự đông đủ, sum họp, cho sự hòa thuận và bình yên. Không chỉ dùng làm thức ăn, chuối hiện nay đã được dùng để trang trí nhà cửa, tạo nên không gian trong mát, tươi mới cho căn nhà của chúng ta.

Cây chuối đã gắn liền với đời sống của người Việt Nam ta từ xưa, từ thời cha ông chúng ta đến nay. Chuối cũng như cây tre đã đi vào những vần thơ, ca dao tục ngữ:

Hay nhà thơ Nguyễn Trãi cũng đã từng làm thơ về cây chuối với tựa “Ba tiêu” như sau:

Chuối đã gắn bó với con người Việt Năm bao đời nay và sẽ gắn bó mãi về sau này. Hình ảnh cây chuối sẽ mãi là hình ảnh loài cây đẹp đẽ trong lòng mỗi người chúng ta.

Đất nước Việt Nam ta có truyền thống nông nghiệp, trồng cây ăn quả lâu năm. Với đất đai màu mỡ và thiên nhiên phù hợp, rất nhiều loại quả ngon ra đời, trở thành một phần không thể thiếu trong cuộc sống của con người. Trong đó, loại quả quen thuộc nhất, loài cây hữu ích nhất chính là cây chuối.

Chuối được trồng ở nhiều nơi với nhiều loại giống khác nhau, từ đồng bằng đến miền núi, từ Nam ra Bắc đâu đâu cũng có họ hàng nhà chuối sinh sống. Dù là loại chuối nào thì chuối cũng có đang thẳng, tròn như một cái trụ mọng nước, gồm nhiều bẹ ấp lại mà thành, ở giữa có lõi dẫn chất dinh dưỡng để nuôi sống cây. Phía đầu mỗi bẹ thì có lá mọc xung quanh, mỗi tàu lá có cuống lá dài chạy dọc giữa bản, lá rộng cỡ 40-50cm. Theo thời gian, bộ lá của họ chuối vàng, già, héo quắt đi và nằm rủ khô quanh thân. Còn củ chuối thì có vỏ đen, sần sùi, khi gọt vỏ ngoài thì để lộ màu ngà đặc trưng. Xung quanh củ có rễ chùm màu nâu hoặc đen, rễ có nhiệm vụ hút chất dinh dưỡng để nuôi cây. Điều không thể không nhắc tới là hoa chuối, hoa có màu phơn phớt hồng giống như bếp lửa của thiên nhiên kỳ diệu. Qua quá trình miệt mài hút chất dinh dưỡng để bồi bổ cho hoa, hoa sẽ phát triển thành buồng chuối, mỗi buồng có từ 8-10 nải, mỗi nải có từ 10-15 quả. Lúc đầu quả còn xanh, lớn dần chín có màu vàng và mùi vị đặc trưng riêng. Họ chuối cũng đóng góp một phần không nhỏ vào sự phát triển chung của đất nước, những nải chuối tươi ngon sẽ được thu hoạch về và đóng gói làm hàng xuất khẩu. Còn trong cuộc sống hàng ngày, họ nhà chuối cũng mang lại nhiều lợi ích cho con người: thân già thì làm phao bè vượt sông; thân non có thể thái ghém làm rau sống ăn rất mát; hoa chuối thì có thể cắt về làm nộm hoặc nấu với ốc, lươn; …. Nhưng có một điều rất quan trọng là chuối còn trở thành vật thờ cúng tổ tiên, ngày lễ Tết thì người ta thờ chuối xanh còn ngày giỗ kinh người ta thờ chuối chín. Cây chuối gắn bó từ bao đời nay và dâng hiến tất cả “tuổi xuân” của mình cho con người Việt Nam cả về đời sống vật chất và tinh thần. Nó sẽ luôn là loại cây, loại quả mà mỗi con dân đất Việt luôn tự hào về nhắc về

Cây chuối còn gắn liền với tuổi thơ của nhiều người không bởi cái hương viij của nó mà là những kí ức không thể phai mờ bên gia đình, bên bạn bè. Hiện nay, tuy chuối vẫn đóng góp một phần không nhỏ trong thu hoạch hằng năm của người nông dân, song cũng đã có rất nhiều những vườn chuối đã bị phá đi do nhu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Tuy vậy nhưng những kí ức về tuổi thơ chơi trốn tìm trong vườn chuối, lén ba mẹ hái những quả chuối chín sớm hay những hòm đánh trận giả lấy lá chuối làm cờ vẫn mãi là kỉ niệm đẹp nhất không thể phai mờ. Những thế hệ hôm nay, các em có ít những trải nghiệm ấy, nhưng mỗi khi ăn trái chuối ngọt thơm, hãy nhớ lấy công lao của những người trồng cây đã chăm bón từng ngày để được có quả ngon như ngày hôm nay.

Trong những hoa thơm trái ngọt mà thiên nhiên tạo hóa diệu kỳ đã ban tặng cho đất nước Việt Nam xinh đẹp của chúng ta không thể thiếu đi chuối – một loại quả thơm ngon dẻo ngọt và rất được ưa dùng.

Chuối được trồng rất nhiều ở nông thôn và là một loài cây ưa nước nên khi đến thăm những vùng quê ta sẽ bắt gặp những bụi chuối mọc hàng ngàn bên cạnh bờ ao, suối. Cây chuối được trồng chủ yếu để lấy trái, và ở mức độ ít hơn là lấy thân và để trang trí. Chuối có gốc tròn, rễ chùm nằm ở bên dưới. Thân chuối thuôn, thẳng, có màu xanh rì, từng lớp lá mọc đè lên nhau thành từng lớp, từng lớp, bao trùm cái ruột rỗng bên trong. Lá chuối xanh, mọc thành từng tàu, to bản. Mỗi cây chuối có một buồng chuối, mọc ở tít phần cao nhất của thân cây, bên dưới mặt những tán lá to rộng. Mỗi buồng phải có tới trăm quả chi chít nhau hoặc hơn thế nữa. Quả chuối ra thành nải treo, mỗi tầng (gọi là nải) có tới hai mươi quả quả, và mỗi buồng có ba đến hai mươi nải như thế. Quả chuối có nhiều hình dạng tuỳ thuộc vào từng loại khác nhau. Chuối ta có dáng thuôn dài, vỏ xanh còn chuối tiêu quả căng tròn, vỏ mỏng, thịt dày, vỏ vàng. Ngoài ra còn có chuối hương, chuối ngự. chuối sứ, chuối mường… vô cùng phong phú, đa dạng.

Cây chuối trong đời sống thường ngày, từ thân, lá quả đều có giá trị, công dụng riêng. Thân cây thái nhỏ ra có thể làm thức ăn cho lợn rất tốt. Lá chuối để gói xôi, gói bánh rất tiện lợi, sạch sẽ và dễ kiếm. Lá chuối khô có thế dùng làm chất đốt, để cuốn bánh gai hoặc quấn nhỏ làm nút chai rượu. Hoa chuối mà để làm món nộm hoa chuối thì ngon còn gì bằng, không những dễ làm mà còn thơm ngon và rẻ. Quả chuối có lẽ là nhiều công dụng nhất. Nó là một loại trái cây rất bổ dưỡng, hội tụ đầy đủ thành phần những chất dinh dưỡng cần thiết cho con người. Trong chuối có chứa nhiều chất vitamin, ăn vào rất tốt cho một làn da mịn màng. Và chủ yếu chuối thường dùng để ăn nhiều hơn vì nó rất ngon. Ở nông thôn, chuối còn là một phần thu nhập của người nông dân, người nông dân trồng chuối, bán những nải chuối kiểm lấy tiền để cải thiện đời sống tốt hơn.

Không chỉ có ích trong đời sống vật chất mà còn mang giá trị tinh thần rất cao. Từ lâu, cây chuối đã trở thành một trong những biểu tượng của làng quê Việt Nam. Hình ảnh nải chuối như đôi tay ngửa nâng đỡ, ôm ấp, hứng lấy nắng sương đọng thành quả ngọt và che chở, bảo bọc, không thể thiếu trên bàn thờ tổ tiên. Cây chuối chính là biểu tượng cho tâm hồn mỗi con dân đất Việt.

Bổ ích và ý nghĩa như vậy, ở Việt Nam, chuối được trồng và bán rộng rãi, giá thành rất rẻ so với những loại hoa quả khác, hầu như mọi gia đình đều có khả năng mua để ăn hàng ngày.

Cây chuối từ lâu đã trở thành một phần quan trọng không thể thiếu trong đời sống của người dân Việt Nam. Nhắc đến cây chuối là như nhắc đến cả hồn cốt của tâm hồn người Việt.

Đất nước Việt Nam ta được thiên nhiên ban tặng cho rất nhiều loại trái cây thơm ngon. Mỗi loài mang một hương vị khác nhau, một hình dáng khác nhau. Và có lẽ về sự dẻo thơm thì chuối là loại quả thơm ngon nhất trong số tất cả các loại hoa quả. Ngoài ra, cây chuối còn rất nhiều tác dụng trong đời sống Việt Nam.

Chuối được trồng rất nhiều ở nông thôn và rất ưa nước nên người ta thường trồng bên ao hồ rất nhanh tươi tốt; còn ở rừng, bên những khe suối hay thung lũng, chuối mọc thành rừng bạt ngàn, vô tận. Chuối phát triển rất nhanh. Chuối có gốc tròn như đầu người, lớn dần theo thời gian, có rễ chùm nằm dưới mặt đất. Thân chuối thuôn, thẳng, có màu xanh rì là do từng lớp lá mọc đè lên nhau thành từng lớp, từng lớp, bao trùm cái ruột rỗng bên trong. Lá chuối mọc thành từng tàu, to bản. Mỗi cây chuối đều cho một buồng chuối. Có buồng chuối trăm quả và nhiều hơn thế. Không thiếu những buồng chuối dài từ ngọn cây uốn trĩu xuống tận gốc cây. Chuối chặt theo nải. Quả chuối có nhiều hình dạng tuỳ thuộc vào từng loại khác nhau. Ví dụ như chuối ta có dáng thuôn dài, vỏ xanh; còn chuối tiêu quả căng tròn, vỏ mỏng, thịt dày, vỏ vàng. Ngoài ra còn có chuối hương, chuối ngự, chuối sứ, chuối mường…

Trong đời sống vật chất của con người Việt Nam thì chuối là một loài cây hữu dụng từ thân đến lá, từ gốc đến hoa, quả. Thân chuối rỗng nên người xưa hay dùng thay phao, ngoài ra còn làm thức ăn cho gia súc. Lá chuối tươi rửa sạch dùng để gói xôi, bánh giầy, bánh cốm, bánh chưng… và một trò chơi dân gian mà trẻ con hay chơi là cưỡi ngựa. Lá chuối khô cũng dùng để gói bánh gai hay cuộn chặt thay nút chai khá tốt. Bắp chuối thì chẻ ngọn nhỏ làm nộm, tương tự với nõn chuối làm rau sống hay ăn kèm với bún ốc, bún riêu. Trái chuối xanh hay được nấu cùng các thức ăn có vị tanh như ốc, lươn… vừa khử tanh lại vừa làm cho món ăn thêm ngon, thêm đa dạng. Trái chuối chín là một thức quả được nhiều người ưa chuộng.

Cây chuối cho ta thật nhiều công dụng, ngay cả với đời sống tinh thần. Cây chuối đã trở thành biểu tượng cho làng quê Việt Nam. Nải chuối chín không thể thiếu trong các mâm cúng trời, đất, tổ tiên.

Cây chuối gắn bó từ bao đời nay và đã dâng hiến tất cả cho con người Việt Nam, từ đời sống vật chất cho tới đời sống tinh thần. Loại cây này đã trở thành niềm tự hào không chỉ của thiên nhiên, của đất mẹ mà còn của nông dân Việt Nam; cây chuối sẽ mãi là hình ảnh đẹp trong lòng mọi người.

Trong đời sống của những người nông dân nơi làng quê, hình ảnh cây chuối đã trở nên hết sức quen thuộc và mang nhiều ý nghĩa. Cùng với cây tre, cây chuối có lẽ chính là người bạn thân thiết nhất đối với tất cả những người con.

Chuối là một loại cây thường mọc thành bụi và được trồng rất nhiều trong vườn. Ở nông thôn, hầu như nhà nào cũng trồng những cây chuối bởi rất nhiều những lợi ích của nó. Thân cây chuối có hình trụ và được tạo thành bởi rất nhiều những bẹ lá hình vòng cung có màu trắng xanh. Nhìn thân cây chuối cao to như vậy, thế nhưng kết cấu bên trong của cây chuối thì rất rỗng và xốp. Thân chuối thường bao giờ cũng có lớp bẹ ngoài có màu đậm hơn nhiều so với những lớp bên trong. Do tác động của thời tiết, lớp bẹ ngoài ấy thường có màu ngả nâu như lớp áo bảo vệ cả thân cây. Lá chuối rất to. Hai mặt của lá chuối có màu không đều nhau cho lắm. Mặt trên của lá có màu đậm hơn so với mặt trên có tác dụng nhận lấy ánh mặt trời để tạo thành chất diệp lục.

Còn mặt dưới thì nhạt màu hơn. Trên tàu lá, những đường gân mọc chi chít theo thứ tự nhất định, đều tăm tắp. Những tàu lá chuối không hề mọc cùng một phía mà mọc theo nhiều hướng khác nhau, vươn ra khắp mọi nơi như bàn tay để hứng lấy nắng, lấy gió thiên nhiên. Chuối là một loại cây ăn quả phát triển khá nhanh. Do vậy, chỉ sau khoảng 2 – 3 tháng, cây chuối đã bắt đầu trổ hoa. Hoa chuối có hình thoi, cũng được tạo thành bởi rất nhiều những lớp áo có màu đỏ tía. Mỗi lớp đều ôm ấp những đài họa bé tí xíu chỉ bằng ngón tay út của chúng ta mà thôi. Chính những đài hoa bé nhỏ này sau này sẽ trở thành những nải chuối thơm ngon. Chuối cũng là loại cây có khả năng thích nghi rất cao, lại nhanh có quả ăn. Do đó, cây chuối cũng được rất nhiều người trồng trong những khu vườn của từng gia đình.

Chuối cũng là một loại cây có rất nhiều những công dụng to lớn. Hầu như các bộ phận ở trên cây chuối đều có thể sử dụng được. Quả chuối là một loại quả rất giàu chất dinh dưỡng cả với chuối xanh và chuối chín. Chuối xanh dùng để ăn cắt lát với những món như thịt ếch, dê, bò… chuối chín có rất nhiều những chất dinh dưỡng năm trong nó. Lõi thân cây chuối và hoa chuối có thể dùng để làm rau sống ăn rất ngon và mát. Lá chuối có thể dùng để gói và bọc thực phẩm. Với những người chăm làm đẹp, hẳn chúng ta đã từng có ít nhất một lần dùng chuối xay nhuyễn để đắp mặt nạ, dưỡng da.

Tất cả những bộ phận trên cây chuối hầu như chúng ta đều có thể sử dụng chúng được. Đó chính là những đặc điểm mà không phải loại cây nào cũng có thể làm được. Thế mới biết, giá trị của cây chuối lớn như thế nào.

Trong đời sống văn hóa, cây chuối cũng được so sánh, liên tưởng tới rất nhiều những hình ảnh. “mẹ già như chuối chín cây”. Hình ảnh của những cây chuối đang có quả chín được so sánh với người mẹ phải hy sinh rất nhiều để chăm lo cho con cái có một cuộc sống tốt đẹp. Những buồng chuối chín dần thì thân cây lại càng thêm khô héo cũng như người mẹ nuôi con, cho tới khi con cái được lớn khôn trưởng thành thì cũng là lúc mẹ đã già đi, không còn được như ngày nào nữa. Đó chính là sự liên tưởng tương đồng của những người mẹ và cây chuối. Hay như trong những bức tranh của các danh hoa thì hình ảnh của cây chuối luôn được người họa sĩ ưu ái để đưa vào trong những đứa con của mình.

Tóm lại, cây chuối là một loại cây vô cùng hữu dụng và có rất nhiều những giá trị trong nó. Không chỉ giúp cho chúng ta có được thu nhập mà chúng còn giúp nuôi dưỡng tâm hồn của mỗi người chúng ta để chúng ta biết thêm nhiều hơn về cuộc sống.

Chuối là loài cây rất quen thuộc và không thể thiếu trong đời sống của con người. Bởi cây chuối có rất nhiều công dụng, quả chuối là món ăn thơm ngon và bổ dưỡng, các bộ phận khác từ cây chuối được dùng làm rất nhiều việc khác nhau. Đi dọc một vòng từ bắc vào nam chúng ta sẽ thấy cây chuối được trồng ở mọi nơi trên khắp đất nước Việt.

Cây chuối được trồng ở khắp mọi nơi ở bờ ao, trong vườn nhà, ở ruộng, hay những vùng đất bãi phù sa. Thân cây mọc thẳng đứng và tròn, được tạo thành bởi lớp bẹ xếp khít vào nhau, bên trong hơi xốp, bề mặt ngoài của thân rất bóng và nhẵn. Lá chuối được mọc ra từ ngọn. Ban đầu những chiếc nõn chuối màu xanh non, sau đó lá xòa dần mọc chìa ra các phía và có màu đậm hơn. Mỗi chiếc là chuối có một đường gân lá nằm ở giữa, hai bên có hai dải mềm mại rủ xuống. Khi lá già thì các là sẽ tự khô đi để nhường chỗ cho những lá non đang chuẩn bị chồi ra ngoài. Khi cây chuối đủ tuổi để trưởng thành, chúng bắt đầu trổ buồng. Mỗi cây chuỗi đều cho một buồng, mỗi buồng lại có nhiều nải, mỗi nải lại có nhiều quả. Có giống cho hàng trăm quả một buồng. Buồng chuối được mọc thành từ những chiếc hoa mọc từ thân ra. Hoa chuối giống như ngọn lửa màu hồng,sau đó những chiếc bẹ nở dần ra rụng xuống là lúc những nải chuối non xuất hiện. Quả chuối lớn rất nhanh, chúng càng phát triển quả chuối càng cong hình lưỡi liềm, khi xanh có có màu xanh, khi chín có màu vàng.

Chuối cũng có rất nhiều loại và được đặt tên với những cái tên rất hấp dẫn như chuối hương, chuối ngự, chuối hột. Mỗi loại chuối đều có đặc điểm, mùi hương thơm ngon riêng. Trong đó chuối ngự được trồng ở vùng Nam Định được coi là loại chuối thơm ngon nhất.

Trong ẩm thực, quả chuối xanh có thể ăn với thịt dê, ăn gỏi, kho cá hay nấu với ốc, ếch đều rất ngon. Với những quả chuối già, chúng sẽ chín cây hoặc đem giấm đi cho chín. Chuối chín có rất nhiều vitamin rất tốt cho sức khỏe, người già và người trẻ đều có thể sử dụng loại chuối này. Xưa kia chuối được coi là loại quả quý thường để tiến vua, ngay nay chuối được coi là món ăn dân giã, quen thuộc. Trồng chuối rất nhanh cho thu hoạch, mang lại giá trị kinh tế cho người nông dân và con phục vụ xuất khẩu. Đây là một trong những loại quả được sử dụng nhiều nhất ở châu Âu vì nó là loại quả không chỉ ngon mà còn sạch.

Không chỉ trồng chuối để ăn quả, khi thu hoạch chuối xong, người ta sẽ dùng thân cây chuối thái ra có thể làm thức ăn cho lợn, trâu bò rất tốt. Thân chuối non có thể dùng gói xôi, bánh nem rất tiện lợi, lá chuối non có thể gói bánh, gói giò, lá chuối khô có thể dùng làm chất đốt. Dây chuối khô có thể dùng để làm dây buộc các vật dụng, rất dai và bền. Người ta có thể dùng hoa chuối đã nở hết buồng để làm nộm hoặc để luộc. Củ chuối cũng có thể làm nộm hoặc nấu lươn, ốc, ếch rất ngon. Chuối là loại quả để thắp hương trong ngày rằm, mùng một, là loại quả không thể thiếu trong mâm ngũ quả ngày tết. Chuối còn tượng trưng cho sự thanh bình của làng quê.

Chuối rất dễ sống và nhanh lớn, nhưng vòng đời của chúng rất ngắn, chỉ khoảng một năm. Mỗi cây chuối lớn lên trưởng thành và chỉ ra bông một lần rồi chết. Vào mua gió bão, nếu chuối có buồng cần phải chống để cây khỏi đổ. Khi thu hoạch cần phải nhẹ nhàng tránh rơi gãy.

Cây chuối gắn bó từ bao đời nay và đã dâng hiến tất cả cho con người Việt Nam, từ đời sống vật chất cho tới đời sống tinh thần. Cây chuối là niềm tự hào không chỉ của thiên nhiên, của đất mẹ mà còn của nông dân Việt Nam; cây chuối sẽ mãi là hình ảnh đẹp trong lòng mọi người.

Đi khắp các làng quê Việt Nam, không khó để bắt gặp hình ảnh những vườn, bụi chuối xanh mướt với những buồng chuối trĩu nặng. Cây chuối ưa sống ở vùng nhiệt đới, chính vì vậy cây chuối đã trở nên quá đỗi quen thuộc với người nông dân Việt Nam từ bao đời.

Cây chuối thuộc họ Chuối. Là loại cây được trồng để lấy quả. Cây chuối có một thân ngầm (củ chuối) ở dưới đất.Từ thân ngầm thân giả của cây mọc lên có thể cao từ 3 đến 5 m, có dạng trụ tròn, màu xanh lá khi còn non, màu nâu hơi đỏ khi trưởng thành. Giữa thân chuối là nơi các tàu lá mọc ra. Ban đầu tàu lá cuộn tròn như một chiếc ống chồi dần lên từ giữa ngọn cây, sau đó lá chuối từ từ xòe ra và tàu chuối cũng không vươn lên bầu trời nữa mà từ từ ngả ngang xuống bởi vì lúc này tàu lá chuối đã lớn và nặng hơn. Tàu lá chuối giống như một chiếc quạt cầm tay lớn, xanh mướt không tì vết. Nhưng sau khi bị gió quật, lá chuối rách thành nhiều mảnh. Và khi già, lá chuối sẽ có màu nâu, héo rũ xuống thân cây chuối.

Tàu là chuối sẽ thay phiên nhau mọc lên, cho đến khi cây trưởng thành cây chuối giống như một chiếc ô vững mình đứng trong gió. Rồi vào một buổi sáng tinh mơ nào đó, bạn sẽ bất ngờ nhìn thấy hoa chuối mọc ra từ giữa thân cây. Hoa chuối có màu đỏ đậm, cấu tạo như một búp sen hướng xuống mặt đất. Từng lá của hoa chuối sẽ nở rồi cuộn lên phía cuống chuối, làm lộ ra nải chuối với những quả chuối bé chỉ bằng ngón tay út. Trong một hoa chuối có rất nhiều nải chuối nhưng để khiến quả to, đều, đẹp người ta sẽ không để hoa chuối nở hết mà cắt hoa đi để dành chất dinh dưỡng nuôi quả lớn.

Bộ phận nào của cây chuối cũng mang những lợi ích riêng. Ngày nay, không mấy ai còn biết tới củ chuối nhưng trong thời kỳ nghèo đói của cuộc kháng chiến chống Pháp, Mỹ, củ chuối đem hầm lên là một loại thức ăn chống đói quen thuộc với người nông dân. Thân cây chuối cũng được đem thái nhỏ dùng để làm thức ăn cho các loại gia súc. Lá chuối thì lại được dùng để gói bánh. Những chiếc bánh giậm, bánh giò được gói bằng lá chuối xanh mướt. Gạo nếp trắng óng lên vị xanh, dậy hương thơm của lá là một món ăn ngon được làm vào các dịp lễ hoặc để ăn lót dạ vào buổi sáng. Món nem chua Thanh Hóa cũng dùng những chiếc là chuối để gói tạo độ thơm cho nem. Lá chuối khô không chỉ dùng để gói bánh gai mà còn được dùng làm chất đốt. Ngay cả hoa chuối người ta cũng nghĩ ra món nộm giải ngán hay món gỏi ngon tuyệt. Còn quả chuối cũng được ăn với nhiều cách khác nhau.

Chuối khi còn xanh được dùng để nấu với thịt hoặc xương, ta cũng có thể đem chuối xắt lát đem chiên tẩm đường hoặc sấy khô tạo thành một món ăn vặt ngòn ngọt, giòn tan. Chuối chín mang nhiều chất dinh dưỡng có thể ăn trực tiếp hoặc làm thành các loại chè, bánh.

Cây chuối rất dễ sinh trưởng trong môi trường đất ẩm. Ta chỉ cần lấy củ chuối vùi vào trong đất ẩm, sau vài ngày thân chuối sẽ mọc lên. Cây chuối ưa nắng nhưng trong điều kiện ít nắng cây vẫn phát triển tuy nhiên sẽ sinh trưởng và phát triển chậm hơn. Có rất nhiều loại chuối khác nhau như: chuối tiêu, chuối hột, chuối hương, chuối ngự, nhưng đặc biệt nhất là loại chuối ngự. Loại chuối này dáng quả nhỏ, chỉ to bằng hai ngón tay chụm lại, khi chín chuối có màu vàng cam đẹp mắt, cuống có màu xanh tươi nên ngày xưa loại chuối này thường được dùng để tiến vua.

Giống như cây lúa, cây cau, cây chuối là loài cây quen thuộc với người nông dân việt Nam từ hàng nghìn năm này, là người bạn thân thiết, là một thứ không thể thiếu trong đời sống của người Việt Nam ta.

Một trong những cây trồng rất phổ biến ở các làng quê của Việt Nam là cây chuối. Đã từ lâu, cây chuối đã trở thành một loại cây có vai trò quan trọng quan trọng với cuộc sống của con người.

Cây chuối thuộc họ Chuối, có nguồn gốc từ vùng nhiệt đới thuộc Đông Nam Á và Úc. Loài chuối được trồng ở khoảng 107 quốc gia trên thế giới. Đa số loại cây được trồng để lấy trái, phục vụ nhu cầu ăn uống của con người.

Cây chuối thường mọc thành bụi (được gọi là bụi chuối), được trồng bằng cách tách rời cây non, từ cây non sẽ mọc ra bụi cây mới. Thân chuối (hay còn gọi là thân giả) được tạo nên bởi các bẹ của tàu chuối. Các bẹ này xếp từng lớp bọc lấy nhau tạo thành thân chuối. Thân chuối trơn, bóng có màu xanh hơi vàng. Thân chuối có thể cao khoảng 2 – 8m, chiều dài của lá có thể kéo dài 3,5m. Như bất kỳ loại cây ăn quả nào, cây chuối cũng có hoa, hoa chuối thuộc loại lưỡng tính. Hoa cái ra phía trên hoa đực. Hoa cái tạo ra những quả chuối phát triển được còn hoa đực thì không sinh sản, còn được gọi là bắp chuối. Khi phần hoa cái kết thành quả và ngày càng phát triển thì sẽ tạo thành buồng chuối. Mỗi buồng chuối có khoảng từ ba đến hai mươi nải. Mỗi nải có thể có tám quả trở lên. Khi non quả có màu xanh non. Khi già, quả có màu xanh đậm và khi chín quả có màu vàng. Cuối cùng là củ chuối là phần nằm dưới đất, có rễ chùm. Củ chuối có hình nửa vòng tròn. Phía dưới tiếp giáp đất có hình nửa vòng tròn, phía trên củ chuối tiếp giáp với thân. Củ chuối có thể ăn được – là món ăn gắn với một thời gian khó của dân tộc Việt Nam.

Cây chuối là loài cây ưa ẩm ướt, nên thường sống ở ven các ao, hồ. Có rất nhiều loại chuối khác nhau. Ở Việt Nam có một số loại chuối phổ biến như chuối tiêu, chuối tây, chuối ngự, chuối ngự, chuối sứ, chuối bom, chuối quạ… Một số loại chuối nhập khẩu từ nước ngoài như chuối Laba (Pháp), chuối Dacca (Trung Mỹ)…

Các bộ phận của cây chuối đều có ích. Chuối là loại trái cây bổ ích cho con người. Nó đã trở thành mặt hàng xuất khẩu với giá trị kinh tế cao của nhiều nước nhiệt đới. Quả chuối xanh còn có thể dùng làm nguyên liệu nấu ăn (bánh chuối, canh chuối…). Có loại chuối còn dùng để ăn kèm với những món ăn khác như cốm tạo ra thứ hương vị rất ngon miệng. Thân chuối non cùng củ chuối có thể thái ra ăn kèm với ốc, lươn để khử tanh rất tốt, lại có thể làm cho món ăn thêm ngon, thêm đa dạng. Tàu lá chuối thường được phơi khô rồi dùng gói lá bánh, gói xôi…

Trong đời sống tinh thần, chuối là một trong những loại quả không thể thiếu trong mâm ngũ quả của ngày tết. Cây chuối còn xuất hiện trong các bức tranh phong cảnh làng quê – trở thành một trong những biểu tượng của thôn quê Việt Nam. Chuối còn xuất hiện trong các bài hát, bài thơ quen…

Như vậy, cuối có vai trò vô cùng quan trọng trong cuộc sống của con người. Dù thời gian qua đi thì những cây chuối vẫn gắn bó với người nông dân nói riêng, con người Việt Nam nói chung.

Nhắc đến Việt Nam là không thể không nhắc đến nhắc đến hình ảnh cây chuối. Chuối là một loài cây rất mực thân quen và gần gũi trong đời sống con người. Từ khắp mọi nẻo đường, đâu đâu ta cũng có thể bắt gặp hình ảnh tàu lá chuối xanh tốt. Cây chuối đóng góp một vai trò quan trọng trong đời sống nhân dân.

Cây chuối thuộc họ Chuối, là một loại cây ăn trái vốn được thuần hóa từ lâu đời. Cây chuối có nguồn gốc từ Đông Nam Á. Đến nay, người ta ước tính có khoảng ba trăm giống chuối được trồng và sử dụng trên khắp thế giới. Cây chuối ở Việt Nam có nguồn gốc từ giống chuối hoang dại. Nó được trồng nhiều ở nông thôn và rất ưa nước nên người ta thường trồng bên ao hồ, ở rừng, ở những khe suối hay thung lũng. Chuối được phân thành nhiều loại. Về cơ bản có chuối ăn quả, chuối lấy lá. Ở Việt Nam có một số loại chuối phổ biến như chuối tiêu, chuối tây, chuối ngự, chuối ngự, chuối sứ, chuối bom, chuối quạ… Một số loại chuối nhập khẩu từ nước ngoài như chuối Laba (Pháp), chuối Dacca (Trung Mỹ)…

Chuối là loại cây có thân ngầm. Phần thân chính nằm dưới đất gọi là củ chuối. Phía trên chỉ là một thân giả mọc thẳng đứng và tròn, được tạo thành từ nhiều lớp bẹ xếp khít vào nhau, bên trong hơi xốp, bề mặt trơn bóng và nhẵn. Lá chuối mọc thành từng tàu, to bản. Ban đầu, những chiếc nõn chuối còn xanh non, sau đó lá xòe ra có màu xanh đậm hơn. Khi già, lá ngả dần về màu vàng đất, rũ xuống để nhường chỗ cho lá tươi. Khi cây chuối trưởng thành, nó bắt đầu trổ buồng. Mỗi cây chuối đều có một buồng, mỗi buồng gồm nhiều nải mỗi nải có nhiều quả. Buồng chuối mọc từ hoa từ thân ra. Giữa tán lá xanh mát, hoa chuối như ngọn lửa hồng chiếu sáng cả vòm lá xanh. Hoa sắp thành hai hàng theo kiểu xoắn tạo thành nải chuối. Sau đó những chiếc bẹ rụng dần là lúc những nải chuối con xuất hiện. Khi chuối còn xanh thì có màu xanh đậm còn khi chín thì ngả sang màu vàng.

Trong đời sống nhân dân Việt Nam, chuối là một loại cây hữu dụng từ thân, lá đến hoa, quả. Quả chuối cung cấp hàm lượng đường cần thiết cho cơ thể hoạt động. Chuối ăn dễ tiêu hóa, vừa sáng mắt lại tốt cho da, làm cho làn da luôn sáng mịn. Thân chuối có thể làm thức ăn cho trâu, bò, lợn rất tốt. Thân chuối non cùng củ chuối có thể thái ra ăn kèm với ốc, lươn để khử tanh rất tốt, lại có thể làm cho món ăn thêm ngon, thêm đa dạng. Lá chuối có thể dùng để gói bánh, gói xôi… khi phơi khô có thể làm chất đốt. Người ta có thể dùng hoa chuối đã nở hết buồng để làm nộm hoặc để luộc. Chuối là thức quả để thắp hương trong các ngày lễ, tết. Trong ngày rằm hoặc mùng một, người ta dùng chuối chín. Đây còn là loại quả không thể thiếu trong mâm ngũ quả ngày Tết.

Chuối là loại cây khá dễ sống ưa đất phù sa, đất bãi ven sông. Quá trình sinh trưởng của một cây chuối không dài khoảng một năm. Mỗi cây chuối chỉ một lần trổ buồng, sau khi thu hoạch người ta chặt cây đào gốc lên để cho cây con phát triển. Một cây chuối mẹ có thể đẻ nhiều cây chuối con rồi đẻ nhiều cây chuối cháu, sinh trưởng rất nhanh. Vì dễ trồng lại nhanh cho quả nên chuối được người nông dân ưa chuộng. Nếu không may chuối bị sâu có thể cắt bỏ lá sâu, bắt sâu. Nếu chuối ra buồng cần phải chống cho cây khỏi đổ. Khi thu hoạch cần phải nhẹ nhàng tránh rơi gãy.

Bên cạnh những loại cây gần gũi như trầu, cau, dừa… thì chuối còn tượng trưng cho sự bình dị, thanh bình của làng quê. Cây chuối có từ ngàn đời. Nó dâng hiến tất cả những gì đẹp đẽ nhất của mình cho con người. Cây chuối là nét đẹp thanh bình của thiên nhiên, của đất mẹ, của nông thôn Việt Nam.

Thiên nhiên tạo hóa đã ưu ái ban tặng cho con người nhiều loại trái cây thơm ngon. Biết bao loại cây, mỗi loại lại có một dáng vẻ, một công dụng khác nhau. Chuối là một loài cây đã vô cùng quen thuộc, gần gũi với làng quê. Đi khắp đất nước Việt Nam, đâu đâu ta cũng có thể bắt gặp hình ảnh những cây chuối, bụi chuối xanh tốt vươn lên từ bờ ao, bờ sông.

Chuối là loại cây có quả được ăn rộng rãi nhất. Nguồn gốc của nó bắt nguồn từ vùng nhiệt đới ở Đông Nam Á và Úc. Ngày nay, nó đã được trồng khắp vùng nhiệt đới. Chuối có mặt ở ít nhất 107 quốc gia. Quả của những cây chuối dại có nhiều hột lớn và cứng. Nhưng hầu hết loại chuối để ăn đều thiếu hột vì đã được thuần hóa lâu đời.

Chuối thường được trồng nhiều ở nông thôn và miền núi. Vì là loài ưa nước nên nó thường mọc ở bên bờ sông, bờ suối. Thân chuối thẳng, nhẵn bóng như cái cột nhà. Thân chuối do nhiều bẹ chuối ôm lấy nhau tạo thành. Bẹ ở ngoài thường có màu đậm hơn, bẹ nằm chính giữa thì có màu trắng. Thân chính này là một thân giả của chuối. Nõn chuối màu xanh non, có hình dạng giống cuốn thư thời xưa. Cây chuối có rất nhiều tàu lá, lá chuối to như tấm phản, gân lá to chạy dọc phiến lá. Lúc lá chuối còn tươi thì có màu xanh nhạt, lúc già thì rũ xuống thân cây, chuyển thành màu nâu. Hoa chuối lúc mới ra thì hướng thẳng lên trời, sau quay sang ngang rồi đâm xuống đất. Sau khi hoa chuối già, bẹ ở ngoài rụng hết thì bắt đầu phát triển thành quả. Một buồng chuối có nhiều nải chuối, thường là mười nải. Những buồng chuối có khi dài từ đỉnh xuống tận gốc, trĩu nặng cả thân cây. Quả chuối màu xanh lúc còn non, khi chín chuyển thành vàng, trông như vầng trăng lưỡi liềm.

Chuối có rất nhiều công dụng, hầu như bộ phận nào của cây cũng không cần bỏ đi. Quả chuối chín thơm ngon, bổ dưỡng được nhiều người ưa chuộng. Ăn chuối còn có tác dụng làm đẹp cho da. Quả chuối xanh ăn kèm với thịt luộc và thường được nấu kèm với cá, ốc… vừa khử tanh vừa làm cho món ăn thêm đa dạng. Lá chuối tươi dùng để gói quà, gói bánh. Lá chuối khô có thể làm chất đốt hoặc dây buộc. Củ chuối, hoa chuối thì nấu canh hoặc làm món nộm, salad. Thân chuối thái nhỏ làm thức ăn cho gia súc, gia cầm. Hạt chuối có thể làm một vị thuốc tốt trong Đông y. Chuối có một vị trí vô cùng quan trọng trong đời sống tâm linh, tín ngưỡng của người Việt. Vào ngày Tết, trên mâm ngũ quả của mỗi gia đình không thể thiếu một nải chuối để cúng tổ tiên. Chuối vốn dĩ chỉ trồng để ăn quả nhưng hiện nay nó còn được dùng để trang trí trong nhà. Tàu lá rộng, xanh mướt của chuối tạo cảnh quan đẹp mắt, mang lại cảm giác tươi mới, êm đềm, tin cậy tượng trưng cho tình yêu của mẹ thiên nhiên. Những năm tháng chiến tranh đói ăn, đói mặc, chuối là nguồn thực phẩm dồi dào đã cứu sống không biết bao nhiêu mạng người.

Advertisement

Chuối cũng khá phong phú, đa dạng về chủng loại. Một số loại chuối tiêu biểu như: chuối ta quả dài như lưỡi liềm, chuối tây quả tròn và ngắn hơn, chuối hột, chuối mật, chuối trứng cuốc. Chuối ngự quả ngắn nhưng ruột vàng và có vị rất thơm ngon. Khi xưa, chuối ngự là món ăn hoàng gia, chỉ có vua chúa mới được thưởng thức. Chuối ngự chính là đặc sản của vùng Hòa Hậu, Lý Nhân, Hà Nam

Cây chuối mọc thành từng bụi và được trồng bằng cách tách rời thân non đem trồng thành bụi mới. Ta nên trồng chuối ở nơi gần nguồn nước như ao, hồ để tiện tưới tắm. Chuối là loại cây dễ trồng và phát triển khá nhanh nên không cần tốn công chăm sóc.

Nguyễn Trãi đã từng làm bốn câu thơ về cây chuối, gọi là “Ba tiêu” :

Trải qua bao nhiêu năm nữa, chuối vẫn sẽ có một ý nghĩa đặc biệt trong đời sống vật chất cũng như tinh thần của người dân Việt Nam.

Nhắc đến những loài cây được trồng phổ biến trong vườn nhà người dân Việt Nam ta, không thể không kể đến cây chuối – loài cây nổi tiếng với công dụng triệt để của nó.

Chuối bắt nguồn từ Đông Nam Á và Úc. Nay, chuối được trồng rộng rãi hơn và hiện là loài cây ăn quả được trồng phổ biến nhất ở vùng nhiệt đới trên toàn thế giới. Chuối thường được trồng ở nông thôn và các vùng miền núi, thường được trồng cạnh bờ sông bờ suối để cung cấp đủ nước cho đặc tính ưa nước của cây. Thân chuối là thân giả với dáng thẳng đứng và lớp ngoài nhẵn bóng, được tạo thành từng nhiều bẹ xếp lớp vào nhau, bẹ ở ngoài có màu sẫm hơn màu của bẹ ở trong. Lá chuối to, gân lá dày, khi còn non sẽ có màu xanh nõn ăm ắp nước đến khi về già lá sẽ chuyển thành màu nâu và khô lại. Hoa chuối mới ea thì hướng lên trời, sau thì càng ngày càng trĩu xuống đất, sau khi rụng hết bẹ thì phát triển trở thành buồng quả. Một buồng chuối thường có 10 nải, vô cùng sai quả, trĩu nặng cả thân cây, thậm chí người trồng phải lấy gậy đẻ cố định thân chuối tránh cho vì buồng chuối quá nặng mà làm đổ cây. Quả chuối là loại quả có hột, khi còn non có màu xanh, sau khi chính thì chuyển thành màu vàng, cong cong như miệng cười duyên của người thiếu nữ. Tuy chuối có nhiều loại những đều mang những đặc điểm chung như trên.

Như đã nói, ta có thể tận dụng triệt để mọi bộ phận của cây chuối. Thân chuối nhiều nước, khi đi rừng, người ta thường lấy nước từ thân chuối đẻ uống thay nước ngọt khi gặp phải tình trạng hết nước dự trữ. Vì có nhiều nước nên thân chuối có thể nổi dễ dàng trên mặt nước, trẻ con vùng nông thôn ngày trước hay dùng thân chuối để thay phao tập bơi ở ao hồ sông suối. Lá chuối cả tươi cả già đều có thể dùng gói bánh, khi tươi có thể đem rửa sạch và bọc nhiều lớp quanh đặc sản nem chua còn khi già thì được khéo léo bọc lấy bánh gai đen, vừa tạo mùi thơm lại vừa bảo vệ môi trường. Hoa chuối khi chưa kết buồng có thể dùng làm nộm, sau khi kết buồng thành từng nải chuối chín vàng thì lại trở thành món loại quả bổ dưỡng đối với cơ thể. Không chỉ hữu ích trong đời sống sinh hoạt đời thương, chuối còn là loài cây mang ý những ý nghĩa trang trọng. Chuối ở vùng Nam Định xưa từng được vua yêu thích không thôi, là thứ quả ngự dụng của nhà vua và sau cũng đổi tên thành chuối ngự. Còn ngày nay, nải chuối vẫn không thể thiếu trên mâm ngũ quả ngày tết vừa với hàm ý về sự đủ đầy và đoàn kết vừa là sự tưởng nhớ và lòng hiếu thảo của con cháu đối với ông bà tổ tiên trong dịp tết đến xuân về.

Đến ngày nay, chuối xuất hiện với nhiều hình thức đa dạng trong cuộc sống con người Việt Nam: từ chuối sấy khô đến những món bánh chuối, kem chuối. Và dù đất nước có hiện đại đến đâu, chuối vẫn là thức quả dinh dưỡng được nhân dân ta ưa chuộng và cây chuối vẫn sẽ không ngừng mọc lên ở những vùng nông thôn và vùng núi cao, vừa đem lại kinh tế cho người nông dân vừa là sự lưu giữ một loài cây mang đậm màu sắc văn hóa nước Việt.

Nhắc đến Việt Nam là nhắc đến quê hương của những loài cây ăn quả phong phú và độc đáo. Khí hậu nhiệt đới ẩm gió mùa tạo điều kiện thuận lợi cho những loài cây này phát triển nhanh chóng. Một trong số những loài cây dễ trồng và nhanh cho thu trái là cây chuối.

Chuối ở Việt Nam hiện nay được biến đến là một loại cây tương đối phổ biến gồm một số loại thông dụng như chuối tiêu, chuối tây, chuối ngự, chuối hột hay chuối lùn,…, ngoài ra còn một số loại chuối rừng…Là một loại cây dễ sống, chuối thích hợp khi được trồng ở những nơi có khí hậu ẩm ướt. Về đặc điểm sinh trưởng, chuối có thể tự sinh trưởng trong môi trường tự nhiên. Chuối thường mọc theo bụi, tuy nhiên để chuối có sự phát triển đầy đủ nhất, người ta thường trồng chuối thành những bụi từ một cho tới bốn cây. Nếu như một bụi chuối quá nhiều, thông thường, người trồng chuối sẽ đánh ra những bụi khác nhau.

Chuối là một loại cây thuộc dạng rễ chùm, chính bởi vậy, người ta sẽ thấy rễ của chuối không ăn quá sâu vào lòng đất nhưng những loại cây ăn quả có rễ cọc khác. Tuy nhiên với đặc điểm rễ mọc thành từng chùm nên chuối vẫn có thể sinh trưởng tốt từ các chất dinh dưỡng và muối khoáng mà các nhánh rễ thu nhận được.

Thân chuối có dạng hình trụ thẳng đứng. Tuy nhiên, theo các nhà khoa học, đây chỉ được gọi là thân giả. Chiếc thân giả này sẽ tùy từng loại cây mà có chiều cao khác nhau, thông thường khoảng từ 1,5 cho tới 2,5 m. Từ mỗi chiếc thân này, có thể mọc ra một một buồng chuối trước khi nó được thay thế bởi một chiếc thân giả khác. Đặc điểm tiêu biểu của thân chuối là bề mặt nhẵn mịn và bóng từ ghép lại thành các lớp chồng lên nhau. Thân chuối có nhiều công dụng, trước hết thân chuối có thể được dùng làm thức ăn cho gia súc gia cầm để bổ sung nước và chất xơ.. ngoài ra thân chuối non còn được sử dụng thái lát mỏng thành một món rau sống ưa thích của con người.

Lá chuối rộng bản và to, có màu xanh non đẹp mắt. Một thân chuối sẽ có nhiều lá chuối mọc xòe ra xung quanh và bên trên ngọn. Hai mặt của lá chuối sẽ có hai màu khác nhau. Mặt bên trên được đón nhận nhiều ánh nắng mặt trời nên sẽ có màu xanh thẫm, mặt bên dưới, do nhận được ít ánh sáng mặt trời hơn nên sẽ có màu xanh nhạt và kèm theo phấn trắng. Lá chuối cũng có rất nhiều công dụng đối với đời sống con người. Người ta sẽ thường sử dụng lá chuối để gói các loại thức ăn như xôi, cốm,… vì rất sạch và thân thiện với môi trường. Đặc biệt hơn, lá chuối khi nhai dập có thể cầm máu. Ngoài ra, lá chuối khô sẽ thường dùng để gói các loại bánh như bánh gai,…. Phần cuống của lá chuối khô rất chắc và dai, vì vậy, những người dân thường sẽ dùng để bó rau. Lá chuối khô cũng có thể dùng làm chất đốt,…

Không thể bỏ qua một bộ phận quan trọng khi nói đến cây chuối, đó là hoa chuối hay còn gọi là bắp chuối. Bắp chuối có màu đỏ thẫm và trông giống như một giọt nước khổng lồ treo ngược. Bắp chuối ở những miền đồng bằng khác bắp chuối rừng về màu sắc, thông thường những hoa chuối ở đồng bằng sẽ có màu màu tím chứ không đỏ tươi như bắp chuối rừng. Hoa chuối ngon sẽ là hoa chuối khi cầm chắc và nặng tay. Hoa chuối thường được sử dụng làm món ăn kèm với các loại bún nước, làm gỏi, hay nộm cũng rất ngon. Đó đều là những món ăn thanh mát rất được người dân Việt Nam ưa chuộng.

Chuối mọc thành từng buồng. Buồng chuối là tập hợp của nhiều nải chuối. Tùy từng giống chuối khác nhau mà mỗi buồng chuối sẽ có số lượng nải chuối không giống nhau. Có những buồng chuối chỉ có vài nải, nhưng cũng có những buồng chuối có số lượng nải lên đến hàng trăm. Để chuối phát triển tốt, quả đều và đẹp, thông thường người trồng chỉ để lại từ mười cho tới mười hai nải trên một buồng.

Tùy từng loại khác nhau mà quả chuối cũng sẽ có hình dạng và vị khác nhau. Quả chuối thường có màu xanh lúc còn non và màu vàng khi chín với hình dáng cong như lưỡi liềm. Thông thường mỗi nải chuối sẽ có từ mười hai cho tới hơn hai chục quả. Quả của những cây chuối rừng sẽ thường có hột lớn hơn và cứng hơn những loại chuối được trồng tại các hộ gia đình. Chuối là một loại quả mang lại giá trị kinh tế cho con người, trong những trang trại lớn người ta trồng chuối nhằm mục đích xuất khẩu. Tuy nhiên có nhiều hộ gia đình cũng trồng chuối với mục đích để tráng miệng hoặc thắp hương mỗi ngày tết ngày rằm. Chuối chín có vị rất ngọt và có mùi rất thơm, người người ta có thể sử dụng để ăn trực tiếp hoặc dùng làm nguyên liệu cho những món ăn mùa hè rất thơm ngon như kem chuối hay chè chuối,…Chuối xanh cũng có thể được sử dụng để làm thành các món như chuối nấu ốc, chuối om đậu hay dùng xắt lát ăn kèm với những món thịt.

Trong đời sống văn hóa của con người, chuối là một loại cây gắn bó với làng quê. Ở đâu ta cũng thấy những cây chuối mọc thành từng bụi xanh tốt. Cây chuối là một loài cây mộc mạc và giản dị, nó cũng tượng trưng cho sự sống của con người dù môi trường khắc nghiệt như thế nào cũng mạnh mẽ vươn lên. Đó là một loại cây có giá trị kinh tế và nhiều công dụng đối với đời sống con người, bởi vậy mỗi người cần yêu quý và trân trọng loài cây hữu ích này.

Cập nhật thông tin chi tiết về Văn Mẫu Lớp 8: Thuyết Minh Về Chùa Tây Phương (4 Mẫu) Thuyết Minh Danh Lam Thắng Cảnh Lớp 8 trên website Yvju.edu.vn. Hy vọng nội dung bài viết sẽ đáp ứng được nhu cầu của bạn, chúng tôi sẽ thường xuyên cập nhật mới nội dung để bạn nhận được thông tin nhanh chóng và chính xác nhất. Chúc bạn một ngày tốt lành!